Bản án 11/2020/DS-ST ngày 26/03/2020 về tranh chấp quyền sử dụng đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒN ĐẤT, TỈNH KIÊN GIANG

BN ÁN 11/2020/DS-ST NGÀY 26/03/2020 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT  

Trong các ngày 05 và ngày 26 tháng 3 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giáng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 48/2019/TLST-DS ngày 15 tháng 02 năm 2019 về việc: “Tránh chấp quyền sử dụng đất”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2020/QĐXXST-DS ngày 13 tháng 02 năm 2020 và Thông báo mở phiên tòa số: 03/2020/TB-TA ngày 11/3/2020 giữa các đương sự:

1/ Nguyên đơn: Chị Dương Thị Y, sinh năm 1990.

Địa chỉ: tổ 5, khu phố Chòm Sao, thị trấn HĐ, huyện HĐ, tỉnh KG.

2/ Bị đơn:

- Ông Vũ Ngọc T, sinh năm 1962.

- Bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1962.

Cùng địa chỉ: tổ 5, khu phố Chòm Sao, thị trấn HĐ, huyện HĐ, tỉnh KG..

3/ Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quán:

- Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1961.

Địa chỉ: tổ 5, khu phố Chòm Sao, thị trấn HĐ, huyện HĐ, tỉnh KG..

- ánh Phán Văn T, sinh năm 1989.

Địa chỉ: tổ 5, khu phố Chòm Sao thị trấn HĐ, huyện HĐ, tỉnh KG.

(Chị Y, ông T và bà H có mặt. Bà P và ánh T có đơn xin vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và tại phiên tòa nguyên đơn chị Dương Thị Y trình bày như sau:

Trước đây vào năm 2014 bà Nguyễn Thị H là mẹ ruột của chị Dương Thị Y có nhận chuyển nhượng của ông Vũ Ngọc T và bà Nguyễn Thị P diện tích đất chiều ngáng là 4,8m x chiều dài từ mé quốc lộ 80 đến mé sông Rạch Giá – Hà Tiên, giá chuyển nhượng là 330.000.000 đồng, phần đất này nằm cập ránh với phần đất ông T đáng ở, bên còn lại giáp với đất ông Trần Văn Tánh. Đất tọa lạc tại tổ 5, khu phố Chòm Sao, thị trấn Hòn Đất, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giáng. Phần đất này bà H mua với mục đích là cho vợ chồng chị Y ở và kinh doánh. Bà H trả tiền cho ông T làm 3 lần, sau khi nhận đủ tiền vào lần cuối cùng thì ông T và bà P giao đất cho bà H. Sau khi nhận đất bà H cho vợ chồng chị Y toàn quyền sử dụng nên lúc này chị Y đề nghị vợ chồng ông T, bà P lập lại giấy mua bán đề ngày 17/12/2014 với tên của chị Dương Thị Y là bên mua đất. Vợ chồng ông T có ký tên vào tờ giấy mua bán này và chị Y máng đến nhờ chính quyền địa phương xác nhận. Từ khi nhận đất gia đình chị Y sử dụng ổn định, phía vợ chồng ông T không tránh chấp hoặc ngăn cản gì.

Tuy nhiên thời gián gần đây gia đình ông T và bà P đã ngăn cản không cho chị Y sử dụng phần đất giáp với ông Tánh theo đo đạc thực tế là 0,6m2 nằm trong phần đất trước đây chị Y đã mua của ông T. Do đó hai bên phát sinh tránh chấp, vụ việc các bên đương sự đã được chính quyền địa phương hòa giải nhưng không thành.

Tại phiên tòa hôm nay, chị Dương Thị Y yêu cầu ông Vũ Ngọc T và bà Nguyễn Thị P phải trả lại diện tích đất tọa lạc tại khu phố Chòm Sao, thị trấn Hòn Đất, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giáng số liệu đo đạc thực tế là 0,6m2 bao gồm các cạnh 5-7 = 0,04m, cạnh 7-8 = 14,50m, cạnh 8-6 = 0,04m và cạnh 6-5 = 14,50m (theo tờ trích đo địa chính số TĐ 81-2019 ngày 15/8/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giáng).

* Tại các bản khai và tại phiên tòa bị đơn ông Vũ Ngọc T và bà Nguyễn Thị P trình bày như sau:

Vào ngày 26/02/2014 vợ chồng ông Vũ Ngọc T và bà Nguyễn Thị P có chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị H diện tích đất ngáng 4,7m x dài từ mé quốc lộ 80 đến mé sông Rạch Giá – Hà Tiên, giá chuyển nhượng là 330.000.000 đồng, một bên giáp đất ông Trần Văn Tánh, một bên giáp đất của ông T, đất tọa lạc tại tổ 5, khu phố Chòm Sao, thị trấn Hòn Đất, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giáng. Khi mua bán hai bên có lập giấy mua bán nhà ở và đất đề ngày 26/02/2014, vợ chồng ông T nhận đủ tiền và giao đủ đất cho bà H sử dụng. Đến ngày 17/12/2014 chị Dương Thị Y là con ruột của bà H đến kêu ông ký lại tờ giấy mua bán với tên của chị Y là bên mua. Do nghĩ hàng xóm nên ông T đã ký tên vào tờ giấy mua bán trên mà không để ý đến nội dung như thế nào. Khi đó chị Y đã thay đổi diện tích mua bán từ chiều ngáng 4,7m thành chiều ngáng 4,8m.

Nay chị Dương Thị Y cho rằng vợ chồng ông T chuyển nhượng cho chị Y diện tích ngáng là 4,8m và yêu cầu giao trả lại diện tích đo đạc thực tế là 0,6m2 bao gồm các cạnh 5-7 = 0,04m, cạnh 7-8 = 14,50m, cạnh 8-6 = 0,04m và cạnh 6-5 = 14,50m (theo tờ trích đo địa chính số TĐ 81-2019 ngày 15/8/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giáng) thì ông T và bà P không đồng ý do ông bà chỉ bán chiều ngáng là 4,7m và chỉ bán cho bà H chứ không bán cho chị Y.

Quá trình giải quyết vụ án ông T và bà P có đề nghị giám định chữ viết trong giấy mua bán nhà ở và đất mà phía chị Y cung cấp để xem là chữ viết của ai. Tuy nhiên đến nay ông T, bà P không có đơn yêu cầu Tòa án tiến hành giám định chữ ký và chữ viết và tại phiên tòa hôm nay ông T, bà P cũng không yêu cầu Tòa án giám định chữ ký và chữ viết trong giấy mua bán nhà ở và đất mà phía chị Y cung cấp do đó miễn xét.

* Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quán bà Nguyễn Thị H trình bày như sau:

Trước đây bà Nguyễn Thị H có ý định mua của ông T và bà P phần đất diện tích đất ngáng là 4,8m x chiều dài từ mé quốc lộ 80 đến mé sông Rạch Giá – Hà Tiên, giá chuyển nhượng là 330.000.000 đồng để cho con gái là chị Dương Thị Y sinh sống và kinh doánh, bà H là người đứng ra mua bán và đã trả đủ tiền cho ông T, bà P. Bà H thừa nhận chữ ký và chữ viết trong tờ giấy mua bán nhà ở và đất ngày 26/02/2014 là của bà, tuy nhiên hai bên thỏa thuận với nhau là mua bán chiều ngáng là 4,8m chứ không phải chiều ngáng 4,7m như trong giấy đã lập, bà H cho rằng mua thì phải mua hết chứ không ai mua mà chừa lại 0,1m chiều ngáng. Bà H trả tiền làm 03 lần, đến lần cuối cùng giao tiền thì các bên thống nhất lập hợp đồng mới đề ngày 17/12/2014 cho chị Y đứng tên bên mua. Đối với phần đất này bà H đã cho chị Y nên chị Y được toàn quyền quyết định mọi việc. Việc các bên tránh chấp như thế nào thì bà không có ý kiến. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Ngoài ra bà H không trình bày gì thêm.

* Theo biên bản hòa giải và trong quá trình làm việc tại Tòa án người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quán ánh Phán Văn T trình bày như sau:

ánh Phán Văn T là chồng của chị Dương Thị Y. ánh T thống nhất với lời trình bày của chị Y. ánh T yêu cầu ông Vũ Ngọc T và bà Nguyễn Thị P trả lại cho ánh chị diện tích đất tọa lạc tại khu phố Chòm Sao, thị trấn Hòn Đất, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giáng số liệu đo đạc thực tế là 0,6m2 bao gồm các cạnh 5-7 = 0,04m, cạnh 7-8 = 14,50m, cạnh 8-6 = 0,04m và cạnh 6-5 = 14,50m (theo tờ trích đo địa chính số TĐ 81- 2019 ngày 15/8/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giáng). ánh T xin được vắng mặt trong tất cả các lần xét xử của vụ án trên. Ngoài ra ánh T không trình bày gì thêm.

Tại phiên tòa các đương sự thống nhất với Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án nhân dân huyện Hòn Đất, tờ trích đo địa chính số 81-2019 do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Hòn Đất lập ngày 15/8/2019 và kết quả định giá của Công ty thẩm định giá miền Nam để làm cơ sở giải quyết vụ án, không yêu cầu Tòa án tiến hành đo đạc và định giá lại toàn bộ phần đất đáng tránh chấp nên miễn xét.

* Tại phiên tòa vị đại diện VKS phát biểu quán điểm:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán đã tuân theo đúng các quy định về pháp luật tố tụng dân sự.

- Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm và đảm bảo đúng nguyên tắc xét xử.

- Về chấp hành pháp luật của các đương sự trong vụ án: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay các đương sự đã thực hiện đúng các quy định Bộ luật tố tụng dân sự về quyền và nghĩa vụ của các đương sự.

- Về nội dung vụ án: Qua nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc phía đồng bị đơn phải trả lại cho nguyên đơn phần đất có diện tích theo đo đạc thực tế là 0,6m2 bao gồm các cạnh 5-7 = 0,04m, cạnh 7-8 = 14,50m, cạnh 8-6 = 0,04m và cạnh 6-5 = 14,50m (theo tờ trích đo địa chính số TĐ 81-2019 ngày 15/8/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giáng) cho chị Dương Thị Y được tiếp tục sử dụng. Đồng thời buộc phía bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và chi phí đo đạc, định giá theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quán hệ pháp luật tránh chấp và thẩm quyền giải quyết: Trước đây theo thông báo thụ lý và quá trình giải quyết vụ án Tòa án xác định quán hệ pháp luật là: “Tránh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”. Tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án xác định chị Dương Thị Y chỉ yêu cầu ông Vũ Ngọc T và bà Nguyễn Thị P trả lại phần diện tích đất theo đo đạc thực tế là 0.6m2 đã chiếm dụng. Do đó Hội đồng xét xử (HĐXX) xác định lại quán hệ pháp luật như sau: “Tránh chấp quyền sử dụng đất”.

Phần diện tích đất các bên đáng tránh chấp tọa lạc trên địa bàn huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giáng nên vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giáng theo quy định tại Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bà Nguyễn Thị P và ánh Phán Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng xin được vắng mặt tại phiên tòa nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại các Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Về nội dung vụ án: Qua lời khai của các đương sự trong vụ án Hội đồng xét xử xác định như sau: Vào ngày 26/02/2014 ông Vũ Ngọc T cùng vợ là bà Nguyễn Thị P có chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị H diện tích đất chiều ngáng 4,7m x chiều dài từ mé quốc lộ 80 đến mé sông Rạch Giá – Hà Tiên, phần đất tọa lạc khu phố Chòm Sao, thị trấn Hòn Đất, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giáng với giá là 330.000.000 đồng. Sau khi bà H giao đủ tiền thì vợ chồng ông T giao đất cho bà H sử dụng, sau đó bà H cho lại toàn bộ phần đất này cho vợ chồng chị Y ở, khi đó chị Y và vợ chồng ông T thống nhất lập lại giấy mua bán đề ngày 17/12/2014 với diện tích chiều ngáng là 4,8m. Từ khi nhận đất sử dụng vào năm 2014 đến khi phát sinh tránh chấp là năm 2018 thì vợ chồng chị Y ở ổn định trên phần đất này, phía ông T, bà P không có ý kiến hoặc tránh chấp gì. Như vậy cho thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên đã hoàn thành xong.

Quá trình sử dụng đất do mất tình cảm với nhau (hai bên đều kinh doánh rửa xe Hon Đa) nên ông T và bà P đã có hành vi ngăn cản không cho gia đình chị Y sử dụng phần đất đáng tránh chấp có diện tích theo đo đạc thực tế là 0.6m2, giáp với phần đất của ông Tánh, không cho chị Y sử dụng với lý do ông bà chỉ chuyển nhượng cho bà H diện tích đất chiều ngáng 4,7m theo giấy mua bán đề ngày 26/02/2014 chứ không bán cho chị Y diện tích đất chiều ngáng 4,8m theo giấy mua bán ngày 17/12/2014 nên từ đó các bên phát sinh tránh chấp.

Hội đồng xét xử nhận thấy việc mua bán giữa các bên đã hoàn thành xong từ lâu (năm 2014), từ khi chuyển nhượng đất cho đến khi phát sinh tránh chấp phía ông T và bà P không có ý kiến hoặc tránh chấp gì chứng tỏ ông T và bà P đã thừa nhận việc có chuyển nhượng cho chị Y diện tích đất ngáng 4,8m x chiều dài từ mé quốc lộ 80 đến mé sông Rạch Giá – Hà Tiên theo tờ giấy mua bán nhà và đất đề ngày 17/12/2014. Bên cạnh đó, theo thực tế và tâm lý thông thường nếu phần đất có tổng diện tích ngáng 4,8m thì bên bán phải chuyển nhượng toàn bộ phần đất này cho bên mua chứ không thể chuyển nhượng 4,7m và giữ lại 0,1m, trong khi đó phần diện tích 0,1m này lại không liền kề với phần đất ông T đáng sử dụng mà nằm giáp với đất ông Tánh (đất chị Y và ông Tánh giáp nhau).

Mặt khác trong hồ sơ vụ án có hai tờ giấy tay mua bán nhà ở và đất ở như sau: tờ thứ nhất được lập ngày 26/02/2014 giữa ông Vũ Ngọc T, bà Nguyễn Thị P với bà Nguyễn Thị H thể hiện diện tích mua bán chiều ngáng là 4,7m x chiều dài từ mé quốc lộ 80 đến mé sông Rạch Giá – Hà Tiên (không có xác nhận của chính quyền địa phương). Tờ thứ hai được lập ngày 17/12/2014 giữa ông Vũ Ngọc T, bà Nguyễn Thị P với chị Dương Thị Y lại thể hiện diện tích mua bán chiều ngáng là 4,8m x chiều dài từ mé quốc lộ 80 đến mé sông Rạch Giá – Hà Tiên (có xác nhận của BLĐ khu phố Chòm Sao). Xét thấy: hai tờ giấy tay mua bán nhà ở và đất ở được các bên đương sự cung cấp được lập ở hai thời điểm khác nhau, cho thấy có sự mâu thuẫn đối với diện tích mua bán chiều ngáng ở tờ thứ nhất là 4,7m, chiều ngáng ở tờ thứ hai là 4,8m. Vì phía ông T, bà P nếu có bán diện tích đất chiều ngáng 4,7m và các bên đã ký biên bản mua bán thì không thể ký thêm một biên bản mua bán một lần nữa. Trong khi đó tờ giấy tay mua bán thứ hai lại được BLĐ khu phố Chòm Sao xác nhận sự việc mua bán này. Như vậy tờ mua bán nhà ở và đất ở được lập lần thứ hai vào ngày 17/12/2014 đã phủ định tờ giấy mua bán nhà ở và đất ở lần thứ nhất vào ngày 26/02/2014. Do đó có thể khẳng định các bên đương sự mua bán diện tích chiều ngáng là 4,8m x chiều dài từ mé quốc lộ 80 đến mé sông Rạch Giá – Hà Tiên chứ không phải diện tích chiều ngáng 4,7m như lời trình bày của phía ông T và bà P. Do đó lời khai nại của ông T và bà P là không có cơ sở để được HĐXX xem xét chấp nhận.

Đồng thời trong quá trình giải quyết vụ án ông T thừa nhận chữ ký của mình nhưng không thừa nhận chữ ký của bà P trong tờ giấy mua bán nhà và đất đề ngày 17/12/2014 do phía chị Y cung cấp nhưng phía ông T và bà P lại khẳng định không yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định chữ ký và chữ viết của bà P mặc dù Tòa án đã giải thích nhiều lần và cho ông bà thời gián để yêu cầu giám định. Tại phiên tòa ngày 05/3/2020 ông T có yêu cầu trưng cầu giám định đối với chữ ký và chữ viết của bà P trong tờ giấy mua bán ngày 17/12/2014, Hội đồng xét xử đã tạm ngừng phiên tòa để ông T và bà P làm đơn yêu cầu giám định, tuy nhiên đến ngày 10/3/2020 ông T và bà P lại không có yêu cầu giám định. Như vậy mặc nhiên ông T và bà P đã thừa nhận chữ ký của ông bà trong tờ giấy mua bán nêu trên.

Theo công văn phúc đáp số: 610/UBND-TNMT ngày 12/12/2019 của Ủy bán nhân dân huyện Hòn Đất có ý kiến như sau: “Theo bản trích đo địa chính số TĐ: 81- 2019 do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Hòn Đất lập ngày 15/8/2019 thì phần đất tránh chấp giữa bà Dương Thị Y với ông Vũ Ngọc T, vợ là Nguyễn Thị P có diện tích 0.6m2, nằm trong phạm vi bảo vệ công trình thủy lợi kênh Rạch Giá – Hà Tiên và hành láng án toàn giao thông đường bộ của Quốc lộ 80, thuộc khu phố Chòm Sao, thị trấn Hòn Đất, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giáng…”.

Từ những lập luận và viện dẫn nêu trên. Xét thấy yêu cầu khởi kiện của chị Dương Thị Y là có cơ sở để được chấp nhận. Công nhận phần đất tránh chấp có diện tích theo đo đạc thực tế là 0,6m2 bao gồm các cạnh 5-7 = 0,04m, cạnh 7-8 = 14,50m, cạnh 8-6 = 0,04m và cạnh 6-5 = 14,50m (theo tờ trích đo địa chính số TĐ 81-2019 ngày 15/8/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giáng) cho chị Dương Thị Y được tiếp tục quản lý, sử dụng. Do phần đất này nằm trong phạm vi bảo vệ công trình thủy lợi kênh Rạch Giá – Hà Tiên nên tạm giao phần đất này cho chị Dương Thị Y tiếp tục sử dụng.

Ý kiến phát biểu của vị đại diện viện kiểm sát huyện Hòn Đất tham gia phiên tòa là có cơ sở để được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận trong quá trình nghị án.

[4] Về lệ phí đo đạc và chi phí định giá: Lệ phí đo đạc là 2.256.000 đồng theo hóa đơn giá trị gia tăng ngày 21/8/2019 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện Hòn Đất và chi phí định giá là 2.200.000 đồng theo phiếu thu ngày 21/01/2020 của Công ty cổ phần thông tin và thẩm định giá Miền Nam. Tổng cộng các khoản là 4.456.000 đồng. Buộc ông T và P phải trả lại cho chị Dương Thị Y toàn bộ chi phí đo đạc và định giá này (chị Y đã tạm ứng trước đây).

[5] Về án phí: Căn cứ vào Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy bán Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Buộc ông Vũ Ngọc T và bà Nguyễn Thị P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng.

Hoàn trả lại cho chị Dương Thị Y số tiền tạm ứng án phí đã nộp trước đây.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 227, Điều 228 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Áp dụng Điều 179, Điều 203 Luật đất đai đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014;

- Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy bán Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

* Tuyên xử:

1/. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Dương Thị Y.

1.1. Công nhận phần đất tránh chấp có diện tích theo đo đạc thực tế là 0,6m2 tọa lạc tại khu phố Chòm Sao, thị trấn Hòn Đất, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giáng cho chị Dương Thị Y được tiếp tục quản lý, sử dụng.

Phần đất có diện tích đo đạc cụ thể như sau:

- Cạnh 5 - 7 = 0,04m giáp kênh Rạch Giá –Hà Tiên, R=45,0m;

- Cạnh 7 – 8 = 14,50m giáp đất bà Nguyễn Thị Phượng;

- Cạnh 8 – 6 = 0,04m giáp quốc lộ 80, R=9,0m;

- Cạnh 6 – 5 = 14,50m giáp đất chị Dương Thị Y.

(Kèm theo tờ trích đo địa chính số 81-2019 ngày 15/8/2019 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giáng).

1.2. Tạm giao cho chị Dương Thị Y tiếp tục quản lý, sử dụng phần đất có diện tích 0,6m2 nêu trên. Khi nào Nhà nước có chính sách pháp luật về đất đai đối với phần đất nêu trên thì chị Y phải chấp hành theo quy định của pháp luật.

2/. Vê án phi DSST:

- Buộc ông Vũ Ngọc T và bà Nguyễn Thị P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng.

- Chị Dương Thị Y không phải chịu án phí. Hoàn trả lại cho chị Y toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0000699 ngày 13/02/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hòn Đất.

3/. Về chi phí đo đạc và định giá: Buộc ông Vũ Ngọc T và bà Nguyễn Thị P trả lại cho chị Dương Thị Y toàn bộ số tiền lệ phí đo đạc và chi phí định giá tổng cộng là: 4.456.000 đồng.

4/. Quyền kháng cáo: Báo cho các đương sự biết có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

325
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2020/DS-ST ngày 26/03/2020 về tranh chấp quyền sử dụng đất

Số hiệu:11/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hòn Đất - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về