Bản án 11/2019/HNGĐ-ST ngày 12/04/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH,  TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 11/2019/HNGĐ-ST NGÀY 12/04/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 12 tháng 4 năm 2019 tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố TháiBình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 09/2018/TLST-HNGĐ ngày20/12/2018 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2019/QĐXXST - HNGĐ ngày 26 tháng 02 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hà Thị H, sinh năm: 1987

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Quân H, sinh năm: 1985

ĐKHKTT: Thôn G, xã C, huyện H, tỉnh Thái Bình.

Chỗ ở: Số nhà 29, đường C, tổ 20, phường K, thành phố B, tỉnh Thái Bình.

(Các đương sự có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

*) Tại đơn khởi kiện đề ngày 13/12/2018, lời khai và các tài liệu chứng cứ đã xuất trình, thì nguyên đơn là chị Hà Thị H trình bày và có yêu cầu cụ thể nhưsau:

Chị và anh Nguyễn Quân H tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn ngày04/10/2011, tại UBND xã C, huyện H, tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn, thời gian đầu, vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc. Nhưng bắt đầu từ khoảng giữa năm 2013, khi anh H tự ý bỏ việc, không có thu nhập, bản thân chị lúc đó nuôi con nhỏ, vợ chồng đã xảy ra mâu thuần, thường xuyên cãi chửi nhau. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, trong kinh tế gia đình, tính tình không hòa hợp, anh H hay ghen tuông vô cớ. Từ đó đến nay, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Anh H hoàn toàn vô trách nhiệm với mẹ con chị. Thời gian gần đây, mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm khi anh H thường xuyên ghen tuông vô cớ, mỗi lần khi vợ chồng cãi nhau thì anh H lại đánh chị, đập phá tài sản, tổ dân phố đã nhiều lần can thiệp, hòa giải anh H hứa sẽ thay đổi nhưng tình trạng thường xuyên lặp lại. Trong quan hệ riêng tư vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, không hòa hợp, chị không được tôn trọng. Vợ chồng  đã nhiều lần ly thân với thời gian kéo dài và hiện tại cũng đang ly thân, chị đã thuê nhà riêng để ở, vợ chồng không còn quan tâm đến nhau. Chị  xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể đoàn tụ được. Vì vậy, chị đề nghị giải quyết cho chị được ly hôn anh H.

Chị và anh H có 01 con chung là Nguyễn Hà L, sinh ngày 22/9/2012, hiện đang ở cùng anh H. Ly hôn, chị có nguyện vọng được trực tiếp  nuôi dưỡng con, không yêu cầu anh H cấp dưỡng cho con. Hiện nay chị không có thai. Chị đang là Giáo viên tại Trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh Thái Bình, thu nhập bình quân hàng tháng hơn 5 triệu đồng, ly hôn, trước mắt chị đã thuê nhà để ở, sau đó chị sẽ mua nhà để hai mẹ con sinh sống. Vì vậy, chị có đủ điều kiện để nuôi con, đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho con. Mặt khác, con L là con gái nên cần sự nuôi dưỡng và chăm sóc của chị để con phát triển bình thường về tâm sinh lý.

Về tài sản: Chị và anh H không có tài sản chung, không cho ai vay, cũng không nợ ai tài sản gì nên không yêu cầu tòa án giải quyết về tài sản.

*) Bị đơn là anh Nguyễn Quân H trình bày:

Anh và chị  Hà Thị H  tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn ngày 04/10/2011 tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện H, tỉnh Thái Bình. Trong quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, vợ chồng cãi chửi nhau, không tôn trọng nhau. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, chị H thiếu tôn trọng gia đình anh, thiếu trách nhiệm với chồng con và gia đình, có quan hệ không bình thường đối với một số người khác giới trong xã hội và ngay trong cơ quan, khi vợ chồng ly thân nhưng chị H vẫn sử dụng thuốc tránh thai. Mặc dù anh và gia đình đã nhiều lần khuyên bảo nhưng chị H không tiếp thu mà ngày càng lấn sâu vào tình trạng trên. Mâu thuẫn trở lên đỉnh điểm nên đến ngày 19/12/2018, chị H tự ý ra ngoài thuê nhà ở đến nay, mỗi người sống một nơi không còn quan tâm đến nhau nữa. Anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể đoàn tụ nên anh đồng ý ly hôn.

Anh và chị H có 01 con chung là Nguyễn Hà L, sinh ngày 22/9/2012, hiện đang ở cùng anh, ly hôn, anh có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con, không yêu cầu chị H cấp dưỡng cho con. Hiện nay anh đang làm việc tại Công ty cổ phần tư vấn kiến trúc T, thu nhập bình quân hằng tháng từ 7.000.000 đồng đến 9.000.000 đồng. Anh và con đang sinh sống tại nhà của bố mẹ anh, kể từ khi chị H ra ở riêng thì mẹ anh ở cùng bố con anh đã trợ giúp anh trong việc nuôi dưỡng và chăm sóc con. Ngôi nhà bố con anh đang sinh sống ngay cạnh trường học nên rất thuận tiện cho việc đưa đón con, con đang có cuộc sống ổn định, bố mẹ anh đã đang và sẽ hỗ trợ anh trong việc nuôi dưỡng và chăm sóc con. Vì vậy, anh có đủ điều kiện để nuôi dướng, chăm sóc con chu đáo, đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho con. Mặt khác, chị H có quan hệ tình cảm với người cùng cơ quan nên không đủ tư cách và đạo đức để trực tiếp nuôi con.

Anh và chị H không có tài sản chung, không nợ ai tài sản gì, không có tài sản cho người khác vay. Không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản.

*) Đại diện Ủy ban nhân phường K, thành phố B, tỉnh Thái Bình cung cấp nội dung như sau:

Chị Hà Thị H và anh Nguyễn Quân H tuy không đăng ký thường trú tại tổ địa phương nhưng đã sinh sống và cư trú nhiều năm nay tại địa chỉ: Số nhà 29, đường C, tổ 20, phường K, thành phố B, tỉnh Thái Bình. Quá trình sinh sống, vợ chồng đã xảy ra mâu thuẫn, địa phương đã phân tích, hòa giải nhưng không có kết quả. Địa phương thấy mâu thuẫn giữa chị H và anh H đã rất trầm trọng, chị H đã bỏ nhà ra ở riêng nhiều tháng nay. Từ khi chị H ra ở riêng thì anh H là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Hà L, việc nuôi dưỡng, chăm sóc con của anh H là tốt, anh H được sự hỗ trợ đắc lực của bố mẹ cả về tinh thần và vật chất. Anh H làm ở doanh nghiệp, có thu nhập, có chỗ ở, cháu L đang học tại trường Tiểu học K, ngay cạnh nhà bố con anh H đang ở nên rất thuận lợi cho việc đưa đón con. Chị H quê ở Bắc Giang, tuy cũng có công việc và thu nhập ổn định nhưng không có người hỗ trợ trong việc nuôi dưỡng và chăm sóc con, không có chỗ ở ổn định (phải thuê nhà ở). Để đảm bảo cuộc sống ổn định cho cháu L, đảm bảo quyền lợi về mọi mặt và tương lai lâu dài cho cháu, đề nghị Tòa án giao cháu Nguyễn Hà L cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng.

Về tài sản của chị H và anh H địa phương không nắm được, vợ chồng không nợ gì đối với các tổ chức, đoàn thể ở địa phương.

*) Đại diện trường Tiểu học K, thành phố B cung cấp nội dung như sau:

Trong khoảng thời gian hơn một tháng trở lại đây (ngày 07/01/2019), Giáo viên chủ nhiệm lớp 1A2 (lớp học của cháu Nguyễn Hà L) thấy cháu L vẫn khỏe mạnh, nhanh nhẹn, tinh thần vui vẻ, hoàn thành tốt việc học tập trên lớpcũng như các bài tập về nhà, không thấy có điều gì bất thường ở cháu. Về các khoản đóng góp của cháu cho nhà trường thì thời gian gần đây do ông bà nội cháu nộp. Theo cô giáo chủ nhiệm lớp 1A2 thì cả chị H và anh H đều có đủ điều kiện để nuôi dưỡng và chăm sóc cháu L, nhưng anh H có sự hỗ trợ của bố mẹ, nhà ở gần trường thì sẽ đảm bảo quyền lợi của cháu tốt hơn so với chị H. Đề nghị Tòa án căn cứ vào mọi điều kiện thuận lợi của các bên để giao cháu L cho ai nuôi phù hợp.

*) Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến tại phiên tòa giải quyết vụ án dân sự:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn đều tuân thủ đúng quy định của pháp luật.

- Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điều điều 51, 55, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình;   điều 26; điều 27 Nghị  quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016:

+ Về hôn nhân: Xử công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Hà Thị H và anh Nguyễn Quân H.

+ Về nuôi con chung: Xử giao con Nguyễn Hà L, sinh ngày 22/9/2012 cho anh Nguyễn Quân H trực tiếp nuôi dưỡng, anh H không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con nên không đặt ra giải quyết.

+ Về tài sản chung: Chị H và anh H không có tài sản chung, không nợ ai tài sản gì, không có tài sản cho người khác vay, không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản nên không đặt  ra giải quyết.

+ Chị H tự nguyện nộp cả án phí ly hôn sơ thẩm.

+ Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Hôn nhân giữa chị Hà Thị H và anh Nguyễn Quân H được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, thời gian đầu, vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc. Nhưng bắt đầu từ khoảng giữa năm 2013, vợ chồng đã xảy ra mâu thuần, thường xuyên cãi chửi nhau. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, trong kinh tế gia đình, tính tình không hòa hợp. Mặc dù gia đình hai bên đã nhiều lần khuyên bảo, hòa giải nhưng mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Vợ chồng   đã nhiều lần ly thân với thời gian kéo dài và hiện tại cũng đang ly thân, chị H đã ra ngoài thuê nhà riêng để ở từ ngày 19/12/2018 đến nay, không còn quan tâm đến nhau nữa. Như vậy, mâu thuẫn giữa chị H và anh H là có thật và ngày càng căng thẳng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị H xin ly hôn, anh H đồng ý ly hôn. Do đó cần áp dụng điều 55 Luật hôn nhân và gia đình, xử công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Hà Thị H và anh Nguyễn Quân H là đúng pháp luật.

 [3] Về nuôi con chung: Chị H và anh Hiệu có 01 con chung là Nguyễn Hà L, sinh ngày 22/9/2012, hiện đang ở cùng anh H. Ly hôn, cả chị H và anh H đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con. Tại phiên tòa, chị H yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con 4.000.000đ/tháng, anh H vẫn không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con. Xét yêu cầu của các đương sự, Hội đồng xét xử thấy: Nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con của chị H và anh H là đều chính đáng, tuy nhiên, cần xem xét đến điều kiện về mọi mặt của từng người để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho con. Chị H tuy có việc làm và thu nhập ổn định nhưng có chỗ ở không ổn định (phải thuê nhà ở), bố mẹ đẻ ở xa (tỉnh Bắc Giang) không hỗ trợ được chị trong việc chăm sóc con. Anh H có thu nhập, có chỗ ở ổn định, có sự hỗ trợ của bố mẹ trong việc chăm sóc con, nhà ở cạnh trường học thuận tiện trong việc học tập của con và đưa đón con, mặt khác, từ khi vợ chồng ly thân thì anh H đã làm tốt trách nhiệm của người cha với con như nhận xét của đại diện chính quyền địa phương và đại diện trường học, hơn nữa, con L đang có cuộc sống ổn định. Vì vậy, cần giao con Nguyễn Hà L cho anh Nguyễn Quân H trực tiếp nuôi dưỡng, anh H không yêu cầu chị H cấp dưỡng cho con là phù hợp quy định tại các điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình.

 [4] Về tài sản chung: Chị H và anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản nên không đặt ra giải quyết.

 [5] Về án phí: Chị H tự nguyện nộp cả 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm. [6] Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định.

Căn cứ nhận xét trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các điều 147; 203; 235; 271; 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 51, 55, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình; điều 26; điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

1. Về hôn nhân: Xử công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Hà Thị H và anh Nguyễn Quân H.

2. Về nuôi con chung: Xử giao con Nguyễn Hà L, sinh ngày 22/9/2012 cho anh Nguyễn Quân H trực tiếp nuôi dưỡng, chị Hà Thị H không phải cấp dưỡng nuôi con cho anh Nguyễn Quân H. Chị H và anh H có quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung và có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu cấp dưỡng cho con khi cần thiết.

3. Về tài sản: Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Chị Hà Thị H tự nguyện nộp cả 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, chuyển số tiền 300.000 đồng chị H đã nộp tạm ứng án phí tại biên lai thu tạm ứng án phí số 0007374 ngày 20/12/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình thành án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 12/4/2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2019/HNGĐ-ST ngày 12/04/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:11/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về