Bản án 11/2019/DS-ST ngày 12/08/2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN ĐỀ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 11/2019/DS-ST NGÀY 12/08/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 12/2019/TLST-DS ngày 15 tháng 3 năm 2019 về “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2019/QĐXXST-DS ngày 22 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chủ hộ kinh doanh ông Nguyễn Thanh T, sinh năm 1982 (Có mặt).

Đa chỉ: Ấp Đ, thị trấn T, huyện T, tỉnh S.

Bị đơn: Bà Thạch Thị L, sinh năm 1953 (Có mặt).

Địa chỉ: Ấp B, xã T, huyện T, tỉnh S.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trần H, sinh năm 1953 (Có mặt).

Địa chỉ: Ấp B, xã T, huyện T, tỉnh S.

- Người phiên dịch tiếng khmer: Bà Lý Ngọc L

- Nơi công tác: Hội khuyến học huyện T, tỉnh S (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 24/01/2019, các lời khai trong quá trình giải quyết án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn ông Nguyễn Thanh T trình bày:

Vào năm 2016, ông T có bán cám, thức ăn chăn nuôi heo cho vợ chồng bà Thạch Thị L, ông Trần H và có cho nợ lại một số tiền. Sau đó vợ chồng bà L có trả dần được một phần đến ngày 12/02/2017 thì ngưng không thanh toán nữa. Tính đến ngày 12/02/2017, vợ chồng bà L, ông H còn nợ với số tiền là 17.970.000đ (Mười bảy triệu, chín trăm bảy chục nghìn đồng).

Nay ông T yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc vợ chồng bà Thạch Thị L, ông Trần H có nghĩa vụ thanh toán cho ông T số tiền còn nợ là 17.970.000đ (Mười bảy triệu, chín trăm bảy chục nghìn đồng). Ngoài ra không yêu cầu gì khác.

Theo biên bản ghi lời khai ngày 04 tháng 4 năm 2019, các lời trình bày trong quá trình giải quyết cũng như tại phiên tòa, bị đơn bà Thạch Thị L trình bày:

Bà Thạch Thị L thừa nhận vợ chồng bà có nợ ông Nguyễn Thanh T số tiền 17.970.000đ (Mười bảy triệu, chín trăm bảy chục nghìn đồng). Nhưng do nuôi heo thất bại nên không có tiền thanh toán cho ông T một lần và xin trả dần mỗi tháng 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) cho đến khi dứt nợ.

Tại phiên tòa ông Trần H thống nhất với lời trình bày của vợ là bà Thạch Thị L. 

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa nêu quan điểm:

Về việc tuân thủ pháp luật: Tòa án thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp; thu thập chứng cứ đầy đủ, đúng pháp luật; Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và qua lời trình bày của các đương sự tại phiên tòa đã có đầy đủ cơ sở để khẳng định việc nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán toàn bộ số tiền còn nợ 17.970.000đ (Mười bảy triệu, chín trăm chín chục nghìn đồng) là có căn cứ pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

- Nguyên đơn ông Nguyễn Thanh T khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc vợ chồng ông Trần H, bà Thạch Thị L có nghĩa vụ thanh toán số tiền còn nợ do mua bán thức ăn chăn nuôi heo. Tòa án xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là tranh chấp “Hợp đồng mua bán tài sản”.

- Xác định lại tư cách tham gia tố tụng của nguyên đơn. Theo thông báo thụ lý vụ án số 12/2019/TLVA-DS ngày 15 tháng 3 năm 2019, Tòa án xác định nguyên đơn là Hộ kinh doanh T là chưa chính xác. Nay Tòa án xác định nguyên đơn là Chủ hộ kinh doanh ông Nguyễn Thanh T.

[2] Về nội dung vụ án:

- Xét về hình thức và nội dung của hợp đồng mua bán tài sản giữa ông Nguyễn Thanh T với vợ chồng bà Thạch Thị L, ông Trần H hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 430 Bộ luật dân sự.

- Xét về quá trình thực hiện hợp đồng: Quá trình mua bán Hộ kinh doanh T do ông Nguyễn Thanh T làm chủ có lập sổ theo dõi. Tính đến ngày 12/02/2017, vợ chồng bà L, ông H còn nợ ông T với số tiền là 17.970.000đ (Mười bảy triệu, chín trăm bảy chục nghìn đồng). Bà L thừa nhận có nợ số tiền trên.

[3] Qua những lời trình bày của các đương sự tại phiên tòa cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Vợ chồng bà Thạch Thị L, ông Trần H có mua thức ăn chăn nuôi heo của Hộ kinh doanh do ông Nguyễn Thanh T làm chủ. Quá trình mua bán, sau khi nhận hàng ông T có cho vợ chồng bà L nợ lại tiền. Sau đó thì vợ chồng bà L có trả được một phần và còn nợ lại 17.970.000đ (Mười bảy triệu, chín trăm bảy chục nghìn đồng). Kể từ ngày 12/02/2017 thì không thanh toán nữa. Như vậy vợ chồng bà L đã vi phạm nghĩa vụ trả tiền được quy định tại Điều 440 Bộ luật dân sự. Do đó ông T yêu cầu vợ chồng bà L, ông H phải có nghĩa vụ thanh toán số tiền còn nợ là có căn cứ. Còn vợ chồng bà L, ông H xin trả dần mỗi tháng 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) đến khi dứt nợ. Xét thấy cách thanh toán của vợ chồng bà L như vậy là không có thiện chí, cố tình kéo dài thời gian trả nợ làm ảnh hưởng đến sự luân phiên đồng vốn gây thiệt hại về kinh tế cho ông T nên yêu cầu này không được chấp nhận.

[4] Về án phí sơ thẩm: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí theo Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

[5] Kiểm sát viên tại phiên tòa nêu quan điểm về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Chủ Hộ kinh doanh ông Nguyễn Thanh T với bị đơn vợ chồng bà Thạch Thị L, ông Trần H. Xét thấy đề nghị của Viện kiểm sát là có căn cứ.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điều 430, Điều 440, Điều 357; Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015; Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

2. Buộc vợ chồng bà Thạch Thị L, ông Trần H có nghĩa vụ liên đới hoàn trả cho ông Nguyễn Thanh T 17.970.000đ (Mười bảy triệu, chín trăm bảy chục nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của ông Nguyễn Thanh T cho đến khi thi hành án xong mà vợ chồng bà Thạch Thị L, ông Trần H chậm trả tiền thì bà L, ông H còn phải liên đới trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm:

3.1. Vợ chồng bà Thạch Thị L, ông Trần H phải liên đới nộp 898.500đ (Tám trăm chín mươi tám nghìn năm trăm đồng) tiền án phí.

3.2. Ông Nguyễn Thanh T không phải chịu án phí. Ông T được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp 449.250đ (Bốn trăm bốn mươi chín nghìn, hai trăm năm mươi đồng) theo biên lai thu số AA/2016/0002980 ngày 14/3/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện T, tỉnh S.

Các đương sự có quyền kháng cáo đối với bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2019/DS-ST ngày 12/08/2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

Số hiệu:11/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Đề - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 12/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về