Bản án 11/2018/HS-ST ngày 29/06/2018 về tội chứa mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁT HẢI, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 11/2018/HS-ST NGÀY 29/06/2018 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 29 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 09/2018/TLST-HS, ngày 11 tháng 5 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2018/QĐXXST-HS, ngày 15 tháng 6 năm 2018 đối với bị cáo:

Phạm Thị Thu H, sinh ngày 17 tháng 10 năm 1969, tại thành phố Hải Phòng. Nơi cư trú: Xã D, huyện N, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Năng B và bà Phạm Thị H; có chồng là Lê Văn C và 01 con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Tại bản án hình sự số 57/2009/HSST, ngày 13 tháng 5 năm 2009 của Tòa án nhân dân quận A, thành phố Hải Phòng xử phạt bị cáo 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Môi giới mại dâm (đã được xóa án tích); bị tạm giữ ngày 23 tháng 01 năm 2018, áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 27 tháng 01 năm 2018; có mặt.

- Người làm chứng:

Ông Ngô Xuân T, có mặt.

Ông Đỗ Thanh T, vắng mặt.

Ông Nguyễn Thành L, vắng mặt

Bà Nguyễn Thu T, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 25 tháng 12 năm 2017, Phạm Thị Thu H cùng chồng là Lê Văn C trú tại xã D, huyện N, thành phố Hải Phòng ký hợp thuê nhà của gia đình ông Ngô Quý T và vợ là bà Hà Thị M trú tại cụm 3, tổ dân phố L, thị trấn H để kinh doanh nhà nghỉ và làm massage lấy biển hiệu “Nhà nghỉ H”. Do việc làm ăn gặp khó khăn nên H thỏa thuận với nhân viên là Vi Thị B, Hà Thị T và Nguyễn Thu T sẽ bán dâm nếu khách có nhu cầu đến nhà nghỉ. Mỗi lần khách mua dâm H thu 300.000 đồng, trả cho nhân viên 120.000 đồng, còn lại H hưởng lợi 180.000 đồng, các nhân viên đều đồng ý. Mọi giao dịch và thu tiền đều do Phạm Thị Thu H thực hiện.

Đến khoảng 22 giờ, ngày 22 tháng 01 năm 2018, Đỗ Thanh T, Nguyễn Thành L và Vũ Thành H cùng bàn bạc với nhau đến nhà nghỉ H để mua dâm. Đỗ Thanh T là người đứng ra giao dịch với Phạm Thị Thu H và thỏa thuận mỗi người mua dâm phải trả là 300.000 đồng, sau đó T, L, H tự trả số tiền mua dâm của mình cho Phạm Thị Thu H. Phạm Thị Thu H bố trí phòng 102 cho Đỗ Thanh T với Vi Thị B; phòng 210 cho Nguyễn Thành L với Nguyễn Thu T; phòng 205 cho Vũ Thành H và Hà Thị T, đồng thời đưa cho mỗi nhân viên 01 bao cao su để sử dụng. Khi 03 đôi nam, nữ đang thực hiện hành vi mua, bán dâm thì bị tổ công tác Phòng Cảnh sát hình sự Công an thành phố Hải Phòng phối hợp với Công an thị trấn H, huyện Cát Hải phát hiện bắt quả tang.

Tang vật thu giữ tại các phòng nghỉ 102, 210, 205 gồm 03 bao cao su và vỏ bao đã qua sử dụng; thu giữ tại quầy lễ tân 01 hộp bao cao su hiệu Vip plus có 20 bao cao su và thu giữ của Phạm Thị Thu H 900.000 đồng tiền khách trả mua dâm.

Phạm Thị Thu Hương bị bắt tạm giữ đến ngày 27 tháng 01 năm 2018 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú.

Đối với hành vi mua, bán dâm của Đỗ Thanh Tùng, Vũ Thành Huy, Nguyễn Thành Long, Vi Thị Bằng, Hà Thị Tư và Nguyễn Thu Trang, Công an huyện Cát Hải đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

Đối với Lê Văn C cùng ký hợp đồng thuê nhà với vợ là Phạm Thị Thu H, do C không biết H có hành vi chứa mại dâm nên Cơ quan điều tra không xử lý.

Tại phiên tòa bị cáo khai: Sau khi ký hợp đồng thuê nhà ngày 25 tháng 12 năm 2017 tại cụm 3, tổ dân phố L, thị trấn H để kinh doanh nhà nghỉ và làm massage lấy biển hiệu “Nhà nghỉ H”. Do việc làm ăn gặp khó khăn nên một mình bị cáo thỏa thuận với nhân viên là Vi Thị B, Hà Thị T và Nguyễn Thu T sẽ bán dân nếu khách có nhu cầu đến nhà nghỉ. Mỗi lần khách mua dâm bị cáo thu 300.000 đồng, trả cho nhân viên 120.000 đồng, còn lại bị cáo hưởng lợi 180.000 đồng, các nhân viên đều đồng ý. Mọi giao dịch và thu tiền đều do bị cáo thực hiện.

Đến khoảng 22 giờ, ngày 22 tháng 01 năm 2018, Đỗ Thanh T, Nguyễn Thành L và Vũ Thành H đến hỏi mua dâm. Đỗ Thanh T là người đứng ra giao dịch với bị cáo và thỏa thuận mỗi người mua dâm phải trả là 300.000 đồng, sau đó T, L, H tự trả số tiền mua dâm của mình cho bị cáo. Bị cáo bố trí phòng 102 cho Đỗ Thanh T với Vi Thị B; phòng 210 cho Nguyễn Thành L với Nguyễn Thu T; phòng 205 cho Vũ Thành H và Hà Thị T, đồng thời đưa cho mỗi nhân viên 01 bao cao su để sử dụng. Khi 03 đôi nam, nữ đang thực hiện hành vi mua bán dâm thì bị Công an thành phố Hải Phòng bắt quả tang. Tang vật thu giữ gồm 03 bao cao su đã qua sử dụng cùng vỏ bao; thu giữ tại quầy lễ tân 20 bao cao su chưa qua sử dụng và thu giữ của bị cáo 900.000 đồng tiền khách trả mua dâm. Bị cáo khai đây là lần đầu tiên tổ chức bán dâm tại Nhà nghỉ Thu H thì bị bắt giữ.

Lời khai của người làm chứng Ngô Xuân T tại phiên tòa: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 22 tháng 01 năm 2018, tôi đang ở nhà thì thấy ầm ĩ tại nhà nghỉ H, tôi chạy sang xem và thấy Công an thành phố Hải Phòng bắt quả tang 03 đôi nam, nữ mua, bán dâm. Các đối tượng bán dâm đều khai do Phạm Thị Thu H làm chủ. Số tiền mỗi lần bán dâm là 300.000 đồng, người bán dâm được hưởng 120.000 đồng, còn Phạm Thị Thu H được hưởng 180.000 đồng.

Lời khai của người làm chứng là người mua dâm tại Cơ quan điều tra gồm Đỗ Thanh T, Nguyễn Thành L và Vũ Thành H khai: Vào khoảng 22 giờ ngày 22 tháng 01 năm 2018, T, L, H rủ nhau đến nhà nghỉ H để mua dâm. Đỗ Thanh T là Người đứng ra giao dịch với Phạm Thị Thu H và thỏa thuận mỗi người mua dâm phải trả là 300.000 đồng, sau đó T, L, H tự trả số tiền mua dâm của mình cho Phạm Thị Thu H. Phạm Thị Thu H bố trí phòng 102 cho Đỗ Thanh T với Vi Thị B; phòng 210 cho Nguyễn Thành L với Nguyễn Thu T; phòng 205 cho Vũ Thành H và Hà Thị T. Khi T, L, H đang thực hiện hành vi mua dâm thì bị Công an thành phố Hải Phòng bắt quả tang và thu giữ mỗi phòng 01 bao cao su đã qua sử dụng.

Lời khai của người làm chứng là người bán dâm tại Cơ quan điều tra gồm Vi Thị B, Nguyễn Thu T và Hà Thị T khai: Nghe bạn bè giới thiệu ra nhà nghỉ H để làm massage thì được Phạm Thị Thu H chủ nhà nghỉ thỏa thuận nếu có khách đến massage có nhu cầu mua dâm thì bán dâm. B, T và T đều đồng ý và thỏa thuận nếu khách đến mua dâm thì Phạm Thị Thu H là người trực tiếp giao dịch, thu tiền mỗi lần là 300.000 đồng. Số tiền này trả cho người bán dâm là 120.000 đồng, còn Phạm Thị Thu H được hưởng 180.000 đồng. Đến khoảng 22 giờ 30 phút, ngày 22 tháng 01 năm 2018, khi B, T, T đang thực hiện hành vi mua bán dâm tại các phòng 102, 210 và 205 thì bị Công an thành phố Hải Phòng bắt quả tang. Tang vật thu giữ tại mỗi phòng là 01 bao cao su đã qua sử dụng. Vi Thị B, Nguyễn Thu T và Hà Thị T đều khai lần đầu bán dâm tại nhà nghỉ H thì bị Công an thành phố Hải Phòng bắt quả tang.

Từ những hành vi nêu trên tại bản Cáo trạng số 08/CT - VKS - CH, ngày 10 tháng 5 năm 2018 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo Phạm Thị Thu H về tội Chứa mại dâm theo khoản 1 Điều 327 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Cát Hải giữ quyền công tố và tranh luận hành vi phạm tội của bị cáo là sử dụng địa điểm thuộc quyền quản lý của mình để chứa mại dâm nhằm thu lợi bất chính cho bản thân. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Chứa mại dâm như bản Cáo trạng mà Viện Kiểm sát đã truy tố. Đại diện Viện Kiểm sát phân tích tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, 5 Điều 327; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 15 tháng tù đến 21 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án được trừ đi thời hạn tạm giữ. Về hình phạt bổ sung và xử lý vật chứng: Phạt bị cáo từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng, tịch thu số tiền mua, bán dâm sung quỹ Nhà nước, tịch thu tiêu hủy toàn bộ số bao cao su mà Cơ quan điều tra đã thu giữ, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với bản luận tội của đại diện Viện Kiểm sát về tội danh cũng như về hình phạt, tuy nhiên bị cáo biết mình vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt, tạo điều kiện cho bị cáo sớm trở về đoàn tụ với gia đình, với xã hội để làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Cát Hải, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Cát Hải, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2]. Các Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, Lệnh bắt tạm giữ, Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đều căn cứ vào những quy định của Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự, đồng thời được Viện Kiểm sát cùng cấp phê chuẩn. Các biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong tang vật đều được các Cơ quan tiến hành tố tụng tuân thủ nghiêm ngặt theo đúng trình tự quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Việc tống đạt các giấy tờ tố tụng cho bị can, bị cáo, người làm chứng được đảm bảo, đúng thời gian, đúng pháp luật.

[3]. Hội đồng xét xử tiến hành phiên tòa đúng trình tự theo quy định Bộ luật Tố tụng hình sự, đảm bảo việc xét xử trang nghiêm, đảm bảo quyền cho những người được thạm gia tố tụng tại phiên tòa.

[4]. Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.

- Về chứng cứ:

[5]. Bị cáo Phạm Thị Thu H khai nhận: Sau khi thuê nhà để làm nhà nghỉ và làm massage, do việc làm ăn gặp khó khăn nên một mình bị cáo thỏa thuận với nhân viên là Vi Thị B, Hà Thị T và Nguyễn Thu T sẽ bán dâm nếu khách có nhu cầu khi đến nhà nghỉ. Mỗi lần khách mua dâm bị cáo thu 300.000 đồng, trả cho nhân viên 120.000 đồng, còn lại bị cáo hưởng lợi 180.000 đồng, các nhân viên đều đồng ý. Mọi giao dịch và thu tiền đều do bị cáo thực hiện.

Đến khoảng 22 giờ, ngày 22 tháng 01 năm 2018, Đỗ Thanh T, Nguyễn Thành L và Vũ Thành H đến hỏi mua dâm. Đỗ Thanh T là người đứng ra giao dịch với bị cáo và thỏa thuận mỗi người mua dâm phải trả là 300.000 đồng, sau đó T, L, H tự trả số tiền mua dâm của mình cho bị cáo. Bị cáo bố trí phòng 102 cho Đỗ Thanh T với Vi Thị B; phòng 210 cho Nguyễn Thành L với Nguyễn Thu T; phòng 205 cho Vũ Thành H và Hà Thị T đồng thời đưa cho mỗi nhân viên 01 bao cao su để sử dụng. Khi 03 đôi nam, nữ đang thực hiện hành vi mua bán dâm thì bị Công an thành phố Hải Phòng bắt quả tang.

[6]. Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận những chứng cứ buộc tội, yêu cầu, đề nghị của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa, cũng như chấp nhận Quyết định truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Cát Hải tại bản cáo trạng số 08/CT-VKS - CH, ngày 10 tháng 5 năm 2018 truy tố bị cáo về tội Chứa mại dâm, theo quy định khoản 1 Điều 327 của Bộ luật Hình sự.

7]. Lời khai trên đây của bị cáo Phạm Thị Thu H phù hợp với nội dung bản Cáo trạng mà Viện Kiểm sát nhân dân huyện Cát Hải đã truy tố, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với tang vật đã thu giữ, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

- Về áp dụng pháp luật:

[8]. Hành vi phạm tội của bị cáo là dùng địa điểm thuộc quyền quản lý của mình để Chứa mại dâm nhằm thu lợi bất chính cho bản thân. Mặc dù trong vụ án này có 03 đôi nam, nữ mua, bán dâm nhưng các bị cáo không phạm tội có tình tiết định khung quy định tại điểm c khoản 2 Điều 327 của Bộ luật Hình sự đó là: Chứa mại dâm từ 02 lần trở lên tức là nhiều lần. Bởi vì khi thực hiện việc thoả thuận mua, bán dâm chỉ có Đỗ Thanh T là người đứng ra giao dịch việc mua, bán dâm chung cho Nguyễn Thành L và Vũ Thành H.

[9]. Từ những phân tích trên đây có đủ cơ sở để kết luận: Phạm Thị Thu H phạm tội Chứa mại dâm, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 327 của Bộ luật Hình sự.

Như vậy Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Cát Hải truy tố bị cáo là có cơ sở, đúng người, đúng pháp luật.

- Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[10]. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, tuy nhiên hành vi phạm tội của bị cáo gây mất trật tự an ninh xã hội, gây bất bình trong đời sống nhân dân. Hành vi của bị cáo bị xã hội cực lực lên án và phản đối, nó làm băng hoại lối sống đạo đức phẩm chất của con người. Hành vi phạm tội của bị cáo bất chấp pháp luật, bất chấp luân thường đạo đức, chà đạp lên thân thể người phụ nữ vì lợi ích vật chất thấp hèn. Mặt khác, năm 2009 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân quận A xử phạt 12 tháng tù về tội Môi giới mại dâm tuy đã được xóa án tích nhưng không lấy đó là bài học cho bản thân mà vẫn cố tình lao vào con đường phạm tội, coi thường kỷ cương pháp luật. Vì vậy, cần phải xét xử bị cáo với mức hình phạt nghiêm khắc để làm gương răn đe kẻ khác và là bài học cho chính bản thân bị cáo, đồng thời cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung.

[11]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, tạo điều kiện cho bị cáo sớm trở về đoàn tụ với gia đình, với cộng đồng để làm lại cuộc đời.

[12]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội nhằm mục đích thu lợi bất chính vì vậy cần áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[13]. Về vật chứng, xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự: Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền do phạm tội mà có, tịch thu tiêu hủy toàn bộ số bao cao su là công cụ dùng vào việc phạm tội.

[14]. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự người bị kết án phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, mức chịu án phí căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1, 5 Điều 327, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt: Bị cáo Phạm Thị Thu H 15 (mười lăm) tháng tù về tội “Chứa mại dâm”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án được trừ đi 05 ngày tạm giữ (từ ngày 23 tháng 01 năm 2018 đến ngày 27 tháng 01 năm 2018).

Phạt bị cáo 10.000.000 (mười triệu) đồng.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, khoản 1; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu sung quỹ Nhà nước 900.000 (chín trăm ngàn) đồng, tịch thu tiêu hủy 23 bao cao su, số vật chứng này hiện đang cất giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cát Hải theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 11 tháng 5 năm 2018 và biên lai thu tiền số 001370, ngày 11 tháng 5 năm 2018.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Phạm Thị Thu H phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. 

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

423
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2018/HS-ST ngày 29/06/2018 về tội chứa mại dâm

Số hiệu:11/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cát Hải - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về