Bản án 11/2018/HSST ngày 05/02/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VŨ THƯ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 11/2018/HSST NGÀY 05/02/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 02 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vũ Thư xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 106/2017/HSST ngày 27 tháng 12 năm 2017 đối với bị cáo:

Bùi Ngọc H; Sinh ngày 07 tháng 7 năm 1977

- Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Số nhà 316, tổ T, thị trấn V, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.

- Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12

- Quốctịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không

- Họ và tên cha: Bùi Mạnh N (đã chết)

- Họ và tên mẹ: Trần Thị T (đã chết)

- Bị cáo chưa có vợ, chưa có con.

- Tiền án: Bản án số 21/2013/HSST ngày 30/5/2013 của Tòa án nhân dân huyện Vũ Thư xử phạt 02 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 05/3/2013 về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngày 05/12/2014 Bùi Ngọc H chấp hành xong hình phạt tù (Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù số 1004/GCN-CHXHPT ngày 05/12/2014 của Trại giam số 5- Bộ Công an). Hiện bị cáo chưa chấp hành xong tiền án phí hình sự sơ thẩm (Biên bản xác minh hồi 08 giờ 30 ngày15/11/2017 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Vũ Thư)

- Tiền sự: Không

- Nhân thân: Từ nhỏ được gia đình nuôi ăn học hết lớp 9/12, sau đó ở nhà lao động tự do. Năm 1994 tham gia nghĩa vụ quân sự đến năm 1997 xuất ngũ về địa phương. Bị cáo sử dụng heroine  từ năm 2006, hiện đang sử dụng dưới hình thức tiêm vào tĩnh mạch.

+ Năm 2008 bị đưa vào Trung tâm chữa bệnh- giáo dục- lao động xã hội thời hạn 01 năm theo Quyết định số 2231/QĐ-UBND ngày 22/5/2008 của Uỷ ban nhân dân huyện Vũ Thư.

+ Năm 2010 bị đưa vào cơ sở giáo dục Thanh Hà thời hạn 02 năm theo Quyết định số190/QĐUB ngày02/02/2010 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Bình.

- Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 02/11/2017 đến ngày 08/11/2017 chuyển tạm giam. Hiện bị can đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình.

- Bị cáo được trích xuất có mặt tại phiên toà.

* Người làm chứng:

- Anh Nguyễn Tiến V, sinh năm 1973. ( Vắng mặt tại phiên toà) Trú tại: Số nhà 05/06, tổ 6, phường P, thành phố T, tỉnh Thái Bình.

- Anh Tô Văn Q, sinh năm 1974. ( Vắng mặt tại phiên toà)

Trú tại: Số nhà 197, ngõ 17, tổ A, thị trấn V, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung  vụ án được tóm tắt như sau:

Do bị mắc nghiện ma túy nên khoảng 07 giờ ngày 02/11/2017, Bùi Ngọc H điều khiển xe môtô nhãn hiệu AWARD, màu đỏ đen, biển số đăng ký 17K5-3920 đi từ Trung tâm y tế huyện Vũ Thư đến khu vực Quán Chuột, xã Mỹ Tân, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định tìm mua Heroine (Hêrôin) để sử dụng cho bản thân. Tại đây, H gặp và mua 02 gói Heroine của một người đàn ông khoảng 50 tuổi không biết tên và địa chỉ cụ thể với giá 200.000 đồng. Sau khi mua được Heroine, H cất giấu 02 gói Heroine vào trong túi quần rồi điều khiển xe mô tô đi về Thái Bình. Khi về đến xã T, huyện Vũ Thư, H dừng xe vào một hiệu thuốc tân dược mua 02 bơm kim tiêm và 02 ống Novocain cho vào túi áo khoác, tiếp tục điều khiển xe mô tô đi về. Đến hồi 09 giờ cùng ngày, khi H về đến khu vực cầu ngang S1 thuộc địa phận tổ H, thị trấn V, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Vũ Thư phát hiện bắt quả tang. Tại đây, trước sự chứng kiến của Công an thị trấn Vũ Thư và những người làm chứng là anh Nguyễn Tiến V, sinh năm 1973, trú tại: Số nhà 516, tổ 6, phường P, thành phố T, tỉnh Thái Bình; anh Tô Văn Q, sinh năm 1974  trú tại: Số nhà 197, ngõ 17, tổ A, thị trấn V, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, lực lượng Công an tiến hành kiểm tra thu giữ trong túi quần dài bên phải, phía trước H đang mặc 02 gói Heroine có trọng lượng 0,3003 gam, mỗi gói đều được gói bằng hai lớp, lớp ngoài bằng nilon màu hồng, lớp trong bằng giấy tráng kim màu vàng; thu giữ trong túi áo khoác bên phải, phía trước H đang mặc 02 bơm kim tiêm chưa qua sử dụng và 02 ống Novocain. Ngoài ra còn quản lý của Hxe môtô nhãn hiệu AWARD, màu đỏ đen, biển số đăng ký 17K5-3920.

- Kết luận giám định số 424/KLGĐ- PC 54 ngày 02/11/2017, của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “02 gói chứa chất bột màu trắng dạng cục thu của Bùi Ngọc H gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có trọng lượng 0,3003  gam (Không phẩy ba nghìn không trăm linh ba gam). Heroine STT: 20, Danh mục I, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính Phủ” .

Cáo trạng số 02/KSĐT ngày 26/12/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình truy tố đối với bị cáo Bùi Ngọc H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu trên.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Vũ Thư vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Bùi Ngọc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng: Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội; Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51, Khoản 2 Điều 51; Điểm h Khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015: Xử phạt Bùi Ngọc H từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 02/11/2017. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo vì bị cáo không có thu nhập ổn định và tài sản.

- Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

 Tịch thu tiêu hủy  số  ma túy đã thu giữ của Bùi Ngọc H niêm phong trong01 phong bì hoàn trả mẫu vật gửi giám định số 424/KLGĐ của Phòng Kỹ thuật hình sựCông an tỉnh Thái Bình; 02 bơm kim tiêm chưa qua sử dụng và 02 ống Novocain.

- Về án phí : Bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, lời khai của những người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ vụ án;

[1] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Bùi Ngọc H khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng truy tố đã nêu phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện Vũ Thư lập hồi 09 giờ 15 phút ngày 02/11/2017 tại trụ sở Ủy ban nhân dân thị trấn V, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình (Bút lục số từ số 01 đến số 04);

- Biên bản niêm phong vật chứng do Công an huyện Vũ Thư lập hồi 10 giờ 35 phút ngày 02/11/2017 tại trụ sở Ủy ban nhân dân thị trấn V, huyện Vũ Thư, tỉnhThái Bình (Bút lục số 05);

- Biên bản ghi lời khai của những người làm chứng là anh Nguyễn Tiến V, sinh năm 1973, trú tại: Số nhà 5/6, tổ 6, phường P, thành phố T, tỉnh Thái Bình; anh Tô Văn Q, sinh năm 1974  trú tại: Số nhà 197, ngõ 17, tổ A, thị trấn V, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình (Bút lục từ số 72 đến số 79);

- Kết luận giám định số 424/KLGĐ- PC 54 ngày 02/11/2017, của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thái Bình (Bút lục số 13);

Thể hiện như sau: Hồi  09 giờ ngày 02/11/2017, tại khu vực cầu ngang S1 thuộc địa phận tổ H, thị trấn V, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình phát hiện bắt quả tang Bùi Ngọc H, sinh ngày 07/7/1977, trú tại số nhà 316, tổ T, thị trấn V, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình có hành vi tàng trữ trái phép 0,3003 gam Heroine trong túi quần dài phía trước, bên phải H đang mặc, mục đích để sử dụng cho bản thân.

[2] Vì vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Bùi Ngọc H đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 theo như quan điểm của Kiểm sát viên đại diện cho VKS tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của Bùi Ngọc H là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất gây nghiện của Nhà nước, làm gia tăng tệ nạn về ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội. Vì vậy phải cần phải xử lý nghiêm khắc, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian tương xứng với mức độ phạm tội của bị cáo thì mới có tác dụng giáo dục riêng cho bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[3]  Đánh giá các tình tiết tăng nặng , giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy:

- Bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “ Tái phạm” theo quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

- Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ là “ thành khẩn khai báo”; bị cáo có thời gian tham gia quân đội, bố đẻ bị cáo là thương binh đã được tặng Huân chương kháng chiến chống Mỹ. Vì vậy cần áp dụng Điểm s Khoản 1 Điều 51, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[4] Về vật chứng:

- Cần tịch thu tiêu hủy  số  ma túy đã thu giữ của Bùi Ngọc H niêm phong trong 01 phong bì hoàn trả mẫu vật gửi giám định số 424/KLGĐ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; 02 bơm kim tiêm chưa qua sử dụng và 02 ống Novocain.

[5]  Về nguồn gốc ma túy: Bùi Ngọc H khai mua của một người đàn ông khoảng 50 tuổi, không biết tên, địa chỉ cụ thể tại khu vực Quán Chuột, xã Mỹ Tân, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Quá trình điều tra không xác định được con người cụ thể đã bán Heroine cho Huyến, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vũ Thư không có căn cứ để xử lý.

[6]  Đối với xe môtô nhãn hiệu AWARD, màu đỏ đen, biển số đăng ký 17K5- 3920, Bùi Ngọc H  khai mượn của anh Bùi Ngọc L, sinh năm 1980, trú tại: Số nhà 405, tổ T, thị trấn V, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình từ cuối tháng 10/2017 để làm xe ôm chở khách. Qúa trình điều tra xác định xe mô tô trên thuộc quyền sở hữu hợp pháp của anh Bùi Ngọc L, anh L không biết việc H dùng xe mô tô để đi mua ma túy. Xét thấy không cần thiết phải tiếp tục quản lý nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vũ Thư đã trả lại xe mô tô trên cho anh L là có căn cứ và đúng với quy định của pháp luật.

[7] Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[8] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố:

Hội đồng xét xử nhận định: Trong quá trình điều tra, truy tố, các hành vi tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đều được thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, đảm bảo các quyền của bị cáo và những người tham gia tố tụng, đảm bảo sự khách quan, không ép cung, không dùng nhục hình. Các quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, đều đúng mẫu văn bản tố tụng, đúng nội dung theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự;

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Bùi Ngọc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội; Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51, Khoản 2 Điều 51; Điểm h Khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015: Xử phạt Bùi Ngọc H 01 năm 06tháng ( Một năm sáu tháng ) tù. Thời hạn tù tính từ ngày 02/11/2017. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy  số  ma túy đã thu giữ của Bùi Ngọc H  niêm phong trong 01 phong bì hoàn trả mẫu vật gửi giám định số 424/KLGĐ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; 02 bơm kim tiêm chưa qua sử dụng và 02 ống Novocain ( Có đặc điểm trong biên bản giao nhận giữa  Công an huyện Vũ Thư và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vũ Thư ngày 29/12/2017).

3.Về án phí: 

Áp dụng điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

Bị cáo Bùi Ngọc H phải chịu 200.000 ( Hai trăm nghìn ) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo đối với Bản án:

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2018/HSST ngày 05/02/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:11/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vũ Thư - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về