Bản án 11/2018/HNGĐ-ST ngày 28/06/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN  HUYỆN LONG PHÚ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 11/2018/HNGĐ-ST NGÀY 28/06/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 28 tháng 6 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 46/2018/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 3 năm 2018 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 6 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Võ Thị Yến N; sinh năm 1987; địa chỉ: ấp 1, thị trấn Đại N, huyện P, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn C; sinh năm: 1982; địa chỉ: Ấp P, thị trấn B, huyện P, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Trong đơn khởi kiện lập ngày 21/02/2018 và tại phiên tòa nguyên đơn bà Võ Thị Yến N trình bày: Bà N và ông Nguyễn Văn C tự nguyện kết hôn với nhau vào năm 2008 và được Ủy ban nhân dân xã N (nay là thị trấn N), huyện P, tỉnh Sóc Trăng cấp giấy chứng nhận kết hôn số: 66, quyển số: 01 ngày 23/5/2008. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian dài, đến tháng 4/2016 bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do ông C cờ bạc không lo làm ăn nên vợ chồng bất đồng ý kiến trong cuộc sống từ đó thường xuyên cãi vã qua lại và cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, bà N và ông C sống ly thân từ tháng 4/2016 cho đến nay, sau khi sống ly thân thì bà N và ông C không có gặp nhau để hàn gắn tình cảm. Trong thời gian chung sống, bà N và ông C không có con chung, không có tài sản chung và không có nợ chung.

Tại phiên tòa, bà Võ Thị Yến N yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Văn C; về con chung, tài sản chung và nợ chung: Không có nên bà N không yêu cầu gì.

- Đối với bị đơn ông Nguyễn Văn c: Sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án cho ông C, nhưng ông C không có ý kiến phản đối gì. Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông C 02 lần để tham gia tố tụng tại phiên hòa giải nhưng ông C vẫn vắng mặt nên Tòa án đã lập biên bản về việc không tiến hành hòa giải được. Bị đơn ông Nguyễn Văn C đã được triệu tập hợp lệ để tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

- Tại phiên tòa, Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú tham gia phiên tòa trình bày ý kiến: Việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và xác định tư cách của người tham gia tố tụng trong vụ án là đúng quy định của pháp luật; Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Đối với bị đơn ông Nguyễn Văn C chưa chấp hành đúng các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua thẩm tra các chứng cứ và kết quả tranh luận tại phiên tòa xét thấy tình trạng của vợ chồng bà Võ Thị Yến N và ông Nguyễn Văn C đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Võ Thị Yến N; về con chung, tài sản chung và nợ chung: Không có và các đương sự không có yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Bị đơn ông Nguyễn Văn C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và khoản 3 Điều 235 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt ông C.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, bà Võ Thị Yến N và ông Nguyễn Văn C tự nguyện kết hôn vào năm 2008 và được Ủy ban nhân dân xã Ủy ban nhân dân xã N (nay là thị trấn N), huyện P, tỉnh Sóc Trăng cấp giấy chứng nhận kết hôn số: 66, quyển số: 01 ngày 23/5/2008 nên quan hệ hôn nhân giữa bà N và ông C là hợp pháp, được pháp luật công nhận. Căn cứ vào khoản 1 Điều 51 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, bà N có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Xét lý do yêu cầu ly hôn của bà Võ Thị Yến N, Hội đồng xét xử xét thấy: Bà N cho rằng nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn do ông C cờ bạc không lo làm ăn nên vợ chồng bất đồng ý kiến trong cuộc sống từ đó thường xuyên cãi vã qua lại và cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc và sau khi sống ly thân thì bà N và ông C không có gặp nhau để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tổ chức phiên hòa giải để động viên vợ chồng bà N và ông C đoàn tụ với nhau nhưng ông C vẫn vắng mặt và bà N vẫn kiên quyết ly hôn với ông C vì tình cảm vợ chồng không còn. Như vậy, tình trạng của vợ chồng bà N và ông C đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, xét việc bà N xin ly hôn với ông C là có căn cứ và phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà N được ly hôn với ông C.

[3] Về con chung: Bà Võ Thị Yến N xác định trong thời gian chung sống, bà N và ông Nguyễn Văn C không có con chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Võ Thị Yến N xác định trong thời gian chung sống bà N và ông Nguyễn Văn C không có tài sản chung và không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Từ những phân tích nêu trên, xét đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về án phí: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bà Võ Thị Yến N phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Ông Nguyễn Văn C không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 3 Điều 235, Điều 271, khoản 1 Điều 273 và khoản 1 Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Võ Thị Yến N và ông Nguyễn Văn C được ly hôn.

Về con chung: Bà Võ Thị Yến N xác định trong thời gian chung sống, bà N và ông Nguyễn Văn C không có con chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà Võ Thị Yến N xác định trong thời gian chung sống bà N và ông Nguyễn Văn C không có tài sản chung và không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Võ Thị Yến N phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002111 ngày 02/3/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, bà N đã nộp xong án phí dân sự sơ thẩm. Ông Nguyễn Văn C không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với bị đơn ông Nguyễn Văn C vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày tống đạt hợp lệ bản án theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2018/HNGĐ-ST ngày 28/06/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:11/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Phú - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về