Bản án 11/2018/HNGĐ-ST ngày 20/06/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 11/2018/HNGĐ-ST NGÀY 20/06/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 20 tháng 06 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 139/2018/TLST-HNGĐ, ngày 09 tháng 04 năm 2018 về việc “Ly hôn, tranh chấp việc nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2018/QĐXXST- HNGĐ, ngày 06 tháng 06 năm 2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Bùi Thị Th, sinh năm 1984 (Có mặt).

Địa chỉ cư trú: Số nhà N, ngõ M, đường Th, phố K, phường Th, thành phố B, tỉnh Ninh Bình.

Bị đơn: Anh Nguyễn Hồng Kh, sinh năm 1973 (Có đơn xin xét xử vắng mặt). Địa chỉ: Số nhà S, ngõ B, phố Tr, phường Th, thành phố B, tỉnh Ninh Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, ngày 03 tháng 04 năm 2018; bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên toà nguyên đơn chị Bùi Thị Th yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và việc nuôi con với anh Nguyễn Hồng Kh cụ thể như sau: Chị Bùi Thị Th xây dựng gia đình với anh Nguyễn Hồng Kh năm 2003, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Khánh Cường, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Hôn nhân là do vợ chồng chị tự nguyện cùng nhau xây dựng hạnh phúc. Sau khi cưới vợ chồng chị sinh được hai con chung là Nguyễn Minh Nh, sinh ngày 06/04/2004; Nguyễn Ngọc Bảo Tr, sinh ngày 25/06/2012. Quá trình chung sống vợ chồng chị sống không hạnh phúc, mâu thuẫn phát sinh ngay từ những ngày đầu khi chị mới về làm dâu và kéo dài từ năm 2003 đến nay. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn là do anh Kh không chịu tu trí làm ăn, thường xuyên rượu chè và có hành vi bạo lực đánh đập chửi bới xúc phạm chị dẫn đến chị phải sống ly thân với anh Kh từ tháng 03/2016. Chị Th nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chị khởi kiện ly hôn anh Kh lần này là lần thứ hai, tình cảm vợ chồng thực sự không còn, không ai quan tâm gì đến nhau nữa vì vậy chị đề nghị Tòa giải quyết ly hôn với anh Nguyễn Hồng Kh.

Việc nuôi con: Chị Th đề nghị Tòa giải quyết để chị được trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng hai con chung, do anh Kh không có thu nhập, không có công ăn việc làm nên chị không yêu cầu anh Kh phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị Bùi Thị Th không yêu cầu Toà án xem xét giải quyết.

Về công nợ chung: Chị Bùi Thị Th, anh Nguyễn Hồng Kh không có công nợ chung, chị không yêu cầu Toà án xem xét giải quyết.

Tại bản tự khai, biên bản hòa giải, bị đơn anh Nguyễn Hồng Kh trình bày: Anh Nguyễn Hồng Kh và chị Bùi Thị Th xây dựng gia đình năm 2003, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Khánh Cường, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Hôn nhân là do anh, chị tự nguyên cùng nhau xây dựng hạnh phúc, anh chị sinh được hai con chung như chị Thiết trình bày. Quá trình chung sống, vợ chồng anh có phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do anh, chị bất đồng trong lối sống, thường xảy ra cãi và chửi nhau dẫn đến chị Bùi Thị Th và anh phải sống ly thân từ tháng 03 năm 2016 đến nay. Anh Kh nhận thấy việc ép chị Th về chung sống với anh tình cảm vợ chồng sẽ không hạnh phúc, tuy vậy anh không muốn con anh sống thiếu cha, mẹ nên anh không đồng ý ly hôn với chị Bùi Thị Th.

Về yêu cầu giải quyết việc nuôi dưỡng con chung: Anh Nguyễn Hồng Kh nhất trí với đề nghị của chị Bùi Thị Th trường hợp phải ly hôn anh nhất trí để chị Th trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Minh Nh, Nguyễn Ngọc Bảo Tr. Do điều kiện về sức khỏe cũng như kinh tế anh Kh không có khả năng cấp dưỡng nuôi con. Anh Nguyễn Hồng Kh có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung sau khi ly hôn.

Về tài sản chung: Anh Nguyễn Hồng Kh nhất trí với ý kiến chị Bùi Thị Th anh, chị không không yêu cầu Toà án xem xét giải quyết.

Về công nợ chung: Anh Nguyễn Hồng Kh, chị Bùi Thị Th, không có công nợ chung, anh Kh không yêu cầu Toà án xem xét giải quyết.

Ý kiến của kiểm sát viên: Qúa trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ, thực hiện đầy đủ, đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Việc giải quyết vụ án căn cứ Điều 56, 81, 82 Luật hôn nhân và gia đình; căn cứ khoản 4 điều 147, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết 326 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Kiểm sát viên đề nghi Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Bùi Thị Th, xử cho chị Th ly hôn anh Kh, ghi nhận sự tự nguyện của anh Kh, chị Th giao các cháu Nguyễn Minh Nh, Nguyễn Ngọc Bảo Tr cho chị Th trực tiếp trông nom, chăm sóc nuôi dưỡng, anh Kh không phải cấp dưỡng nuôi con. Anh Kh có quyền và nghĩa vụ đi lại thăm nom, chăm sóc con chung sau khi ly hôn.

Chị Bùi Thị Th phải nộp án phí dân sự sơ thẩm (Về ly hôn) theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Bùi Thị Th, anh Nguyễn Hồng Kh xây dựng gia đình với nhau năm 2003, có đăng ký kết hôn, có con chung đây là hôn nhân hợp pháp theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

[2]. Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

- Về yêu cầu ly hôn: Xét thấy trong quá trình chung sống chị Th và anh Kh có xảy ra mâu thuẫn và thực tế anh, chị đã sống ly thân từ tháng 03 năm 2016 đến nay các bên không có tranh chấp, phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Quá trình xảy ra mâu thuẫn giữa chị Th và anh Kh đã được hai bên gia đình hòa giải nhiều lần nhưng không thành, chị Th xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chị đã hai lần làm đơn khởi kiện ly hôn với anh Kh, hòa giải tại Tòa án chị Th cương quyết xin ly hôn cho thấy mâu thuẫn giữa chị Th và anh Kh đã trầm trọng, mục đích hôn nhân theo quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình không đạt được. Việc chị Th về chung sống với anh Kh khi không tự nguyện dẫn đến hôn nhân không hạnh phúc. Vì vậy chị Th đề nghị ly hôn với anh Kh là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

- Về yêu cầu giải quyết việc nuôi con:

Chị Bùi Thị Th, anh Nguyễn Hồng Kh có hai con chung là Nguyễn Minh Nh, sinh ngày 06/04/2004; Nguyễn Ngọc Bảo Tr, sinh ngày 25/06/2012; các con của anh Kh, chị Th đang chung sống cùng chị Th được nuôi ăn học, sinh hoạt ổn định, thuận tiện; anh Kh, chị Th thỏa thuận trường hợp phải ly hôn anh chị thống nhất để chị Th trực tiếp trông nom, chăm sóc giáo dục nuôi dưỡng hai cháu Nguyễn Minh Nh, Nguyễn Ngọc Bảo Tr, anh Kh không có công ăn việc làm, thu nhập nên anh Kh không phải cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy sự thỏa thuận của chị Th, anh Kh là tự nguyện, phù hợp với nguyện vọng của cháu Nguyễn Minh Nh và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về việc nuôi con chung là có căn cứ theo Điều 81, 82 Luật hôn nhân và gia đình.

[3]. Các đương sự không đề nghị chia tài sản chung, công nợ chung nên Tòa không xem xét giải quyết.

[4]. Anh Nguyễn Hồng Kh có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án xét xử vắng mặt anh Kh.

[5]. Về nghĩa vụ chịu án phí chị Th phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 56, 81, 82 Luật hôn nhân và gia đình; căn cứ khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết 326/2016 xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Bùi Thị Th.

2. Xử: Chị Bùi Thị Th ly hôn anh Nguyễn Hồng Kh.

3. Việc nuôi con chung: Ghi nhận sự thỏa thuận của anh Nguyễn Hồng Kh và chị Bùi Thị Th: Chị Bùi Thị Th được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Minh Nh, Nguyễn Ngọc Bảo Tr. Anh Nguyễn Hồng Kh không phải cấp dưỡng nuôi con. Anh Nguyễn Hồng Kh có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung sau khi ly hôn

4. Về nghĩa vụ chịu án phí: Chị Bùi Thị phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (về ly hôn) là 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng), được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm (về ly hôn) chị Th đã nộp 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng), theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số: AA/2016/0000961, ngày 17 tháng 04 năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Ninh Bình. Chị Bùi Thị Th đã nộp đủ án phí.

Án xử sơ thẩm công khai, chị Th, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (20/06/2018), anh Kh vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

 “Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7,7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2018/HNGĐ-ST ngày 20/06/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:11/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về