Bản án 11/2018/HNGĐ-ST ngày 18/01/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 11/2018/HNGĐ-ST NGÀY 18/01/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 18 tháng 01 năm 2018 tại phòng xử án, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 565/2017/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 5 năm 2017 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 449/2017/QĐST-HNGĐ ngày 23 ngày 11 tháng 2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 357/2017/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 12 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị T, sinh năm: 1994.

Địa chỉ: D2/33 ấp 4, xã A, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Ông Lý Ngọc Đ, sinh năm: 1987.

Địa chỉ: D11/319C ấp 4, xã A, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Bà T có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, ông Đ vắng mặt không có lý do tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn ngày 09/5/2017, bản tự khai ngày 09/6/2017 nguyên đơn bà Lê Thị T trình bày:

Bà và ông Lý Ngọc Đ tự quen biết, tìm hiểu nhau, bắt đầu chung sống từ năm 2008 và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 25/12/2012. Trong quá trình chung sống, bà và ông Đ có nhiều mâu thuẫn trầm trọng, vợ chồng thường xuyên bất hòa. Ông Đ thường hay có hành vi chửi mắng và sử dụng bạo lực đối với bà. Vợ chồng không còn yêu thương và tôn trọng nhau, bà và ông Đ đã sống ly thân với nhau từ tháng 4/2017 cho đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn nên bà yêu cầu ly hôn với ông Lý Ngọc Đ.

Về con chung: Bà xác nhận bà và ông Đ có 01 con chung tên Lý Gia T, sinh ngày 27/02/2013. Hiện nay trẻ T đang sống với bà. Khi ly hôn bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng trẻ T, không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung và nợ chung: Bà xác nhận không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, bà không có ý kiến và yêu cầu gì khác.

Do bận công việc nên bà T có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết tại phiên tòa.

Bị đơn ông Lý Ngọc Đ vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biếu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến giải quyết vụ án về nội dung như sau:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự; căn cứ  Điều 8, 9, 51, 56, 81 và 110 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cụ thể: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Lê Thị T đối với ông Lý Ngọc Đ. Về con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử giao Lý Gia T, sinh ngày 27/02/2013 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với ông Đ.Về tài sản chung, nợ chung: Ghi nhận các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[2] Bà Lê Thị T khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Lý Ngọc Đ. Ông Đ có nơi cư trú tại huyện B nên căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

[3]Về sự vắng mặt của đương sự: Bà T có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt, ông Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bà T, ông Đ theo quy định điểm b khoản 2 Điều 227,   khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[4] Về quan hệ vợ chồng: Bà Lê Thị T và ông Lý Ngọc Đ  chung sống có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã C, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh cấp giấy chứng nhận kết hôn số 167/2012 ngày 25/12/2012. Do đó, có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông Đ là hôn nhân hợp pháp được quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[5] Khoản 1 Điều 19 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.”

[6] Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “....Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được.”

[7]Theo kết quả xác minh của Ủy ban nhân dân xã C, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh tình trạng hôn nhân cho biết: Bà T và ông Đ không còn chung sống với nhau từ tháng 01/2017 cho đến nay.

[8]Trong quá trình giải quyết vụ án, bà T xác nhận bà và ông Đ chung sống không hạnh phúc, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, ông bà đã sống ly thân đầu năm 2017 cho đến nay. Mặt khác, ông Đ đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng nhưng vẫn không đến Toà án tham gia tố tụng để Toà án hoà giải, động viên hai bên đoàn tụ, hàn gắn tình cảm vợ chồng. Điều này chứng tỏ giữa ông Đ và bà T đã không còn tình cảm với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được thì cuộc sống chung cũng không còn ý nghĩa. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T đối với ông Đ.

[9]Về con chung: Có 01 (một) con chung tên Lý Gia T, sinh ngày 27/02/2013.

[10]Khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 7 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

[11]  Bà T có nguyện vọng được nuôi trẻ T. Ông Đ đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án cũng như thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải nêu rõ yêu cầu của bà T, nhưng ông Đ không có văn bản nêu rõ ý kiến của mình đối với yêu cầu của bà T và ông cũng không đến Tòa án tham dự các buổi hòa giải, phiên tòa xét xử mà vắng mặt. Tòa án căn cứ vào các chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án để giải quyết. Bà T xác nhận hiện nay trẻ T đang được bà T trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng. Do đó, nhằm bảo đảm quyền lợi về mọi mặt cho trẻ T, Hội đồng xét xử quyết định giao trẻ T cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng.

[12] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà T không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy đây là sự tự nguyện của đương sự và không trái quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với ông Đ.

[13]   Về tài sản chung, nợ chung: Bà T xác nhận bà và ông Đ không có tài sản chung, nợ chung. Ông Đ vắng mặt không thể hiện ý kiến, yêu cầu của ông về vấn đề tài sản chung, nợ chung giữa ông với bà T  nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết vấn đề tài sản chung, nợ chung giữa bà T và ông Đ trong vụ án này, nếu sau này các đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết trong một vụ án khác.

[14]  Về án phí: Bà Lê Thị T chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 91, khoản 4 Điều 147, khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ vào Điều 8, Điều 9, khoản 1 Điều 19, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ vợ chồng: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Lê Thị T đối với ông Lý Ngọc Đ.

1.1. Bà Lê Thị T được ly hôn với ông Lý Ngọc Đ.

1.2. Giấy chứng nhận kết hôn số 167/2012 do Ủy ban nhân dân xã C, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 25/12/2012 không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung:

2.1. Giao trẻ Lý Gia T, sinh ngày 27/02/2013 cho bà Lê Thị T trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với ông Đ.

2.2. Ông Đ có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản. Vì lợi ích con chung, khi cần thiết các bên có quyền xin thay đổi việc nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét trong vụ án này, nếu sau này các đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết trong một vụ án khác.

4. Về án phí: Bà Lê Thị T chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) mà bà T đã nộp theo biên lai thu số AA/2016/0033408 ngày 18/5/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

6. Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

311
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2018/HNGĐ-ST ngày 18/01/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:11/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về