Bản án 11/2018/HNGĐ-ST ngày 13/04/2018 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN K, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 11/2018/HNGĐ-ST NGÀY 13/04/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 13 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân quận K, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 240/2017/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 11 năm 2017 về việc "Ly hôn", theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 110/2018/QĐXXST- HNGĐ ngày 05 tháng 3 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên toà số 152/2018/QĐST-HNGĐ ngày 27/3/2018 , giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị L; cư trú tại: Tổ 1, phường M, quận K, thành phố Hải Phòng; vắng mặt tại phiên toà.

- Bị đơn: Anh Phạm Quang C; cư trú tại: Tổ 2, phường M, quận K, thành phố Hải Phòng; vắng mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các bản tự khai của nguyên đơn là chị Phạm Thị L trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị L và anh Phạm Quang C kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường M, quận K, thành phố Hải Phòng theo Chứng nhận kết hôn số 57 quyển số 01/95 ngày 15/12/1995. Quá trình chung sống, thời gian đầu hạnh phúc, sau đó thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi nhau nguyên nhân do chị L không có khả năng sinh con. Đến năm 2003, chị L bị anh C đuổi ra khỏi nhà, phải chuyển về sống cùng mẹ đẻ tại tổ Vinh Quang 1, phường M, quận K, thành phố Hải Phòng; Từ đó đến nay vợ chồng sống ly thân mỗi người một nơi. Nay xét thấy, tình cảm vợ chồng không còn, chị L đề nghị Toà án giải quyết cho chị L được ly hôn với anh C.

- Về con chung: Chị L và anh C không có con chung.

- Về tài sản chung: Chị L không yêu cầu Toà án giải quyết.

Quá trình Toà án giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân quận K tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng hợp lệ nhưng anh Phạm Quang C không hợp tác, không đến Toà án làm việc, không tham gia các phiên hoà giải, không có văn bản thể hiện quan điểm về việc giải quyết vụ án

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận K phát biểu ý kiến:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thực hiện đúng trình tự tố tụng, nguyên đơn đã tuân theo đúng quy định của pháp luật, bị đơn hoàn toàn không thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Chị L vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt, anh C vắng mặt lần thứ hai không có lý do, vì vậy Toà án tiếp tục xét xử là đúng quy định.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn xử cho chị Phạm Thị L được ly hôn anh Phạm Quang C. Về con chung và tài sản chung: Không có, các đương sự không đề nghị Tòa án giải quyết. Về án phí: Chị Phạm Thị L phải nộp 300.000 đồng tiền án phí ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền: Bị đơn anh Phạm Quang C, cư trú tại: Tổ 2, phường M, quận K, Hải Phòng, vì vậy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận K, thành phố Hải Phòng theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về tố tụng: Tòa án nhân dân quận K đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên toà nhưng bị đơn không thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, vắng mặt tại phiên tòa không có lý do lần thứ hai. Toà án nhân dân quận K nhận được đơn đề nghị của nguyên đơn chị Phạm Thị L xin xét xử vắng mặt vì lý do công việc nên không thể đến phiên toà được. Căn cứ điểm a, b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[3] Về quan hệ pháp luật: Nguyên đơn chị Phạm Thị L và bị đơn anh Phạm Quang C kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường M, quận K, thành phố Hải Phòng vào ngày 15/12/1995. Vì vậy, hôn nhân giữa nguyên đơn và bị đơn là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại khoản 1 Điều 8, khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về hôn nhân: Quá trình chung sống, thời gian đầu hạnh phúc, sau đó thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi nhau nguyên nhân do chị L không có khả năng sinh con. Đến năm 2003, chị L chuyển về sống cùng mẹ đẻ tại Tổ 1, phường M, quận K, thành phố Hải Phòng; Từ đó đến nay vợ chồng sống ly thân mỗi người một nơi, không ai còn quan tâm đến ai, tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận đề nghị của nguyên đơn xin ly hôn bị đơn là phù hợp pháp luật.

[5] Về nuôi con: Chị Phạm Thị L trình bày không có con chung, không yêu cầu Hội đồng xét  xử giải quyết.

[6] Về tài sản chung: Chị Phạm Thị L không yêu cầu Hội đồng xét xử giải quyết.

[7] Về án phí: Chị Phạm Thị L phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

[8] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm b khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228; Điều 271, Điều 273, Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27, Điều 48 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Xử:

Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Phạm Thị L và anh Phạm Quang C.

Về nuôi con: Chị Phạm Thị L và anh Phạm Quang C không có con chung,không yêu cầu Hội đồng xét xử giải quyết.

Về chia tài sản: Chị Phạm Thị L không yêu cầu Hội đồng xét xử giải quyết.

Về án phí: Chị Phạm Thị L phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0010078 ngày 03/11/2017, tại Chi cục Thi hành án dân sự quận K, thành phố Hải Phòng, nguyên đơn đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Quyền kháng cáo đối với bản án: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 11/2018/HNGĐ-ST ngày 13/04/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:11/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Kiến An - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về