Bản án 110/2021/HS-ST ngày 30/08/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NGHI SƠN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 110/2021/HS-ST NGÀY 30/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 8 năm 2021, tại Toà án nhân dân thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 109/2021/TLST-HS ngày 11 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 107/2021/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Đức T (tên gọi khác: Nguyễn Văn T); sinh năm 1966; nơi sinh: Phường H, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: Tổ dân phố H, phường H, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa; chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố H, phường H, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; văn hoá: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn T (đã chết); con bà: Lê Thị T - sinh năm 1936; có vợ là: Hoàng Thị H - sinh năm 1973 (đã ly hôn); có 02 con, con lớn sinh năm 1991, con nhỏ sinh năm 1997;

* Tiền án: Không;

* Tiền sự 03:

- Ngày 11/6/2020, bị Công an phường Hải Ninh xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy;

- Ngày 21/6/2020, bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã phường;

- Ngày 11/11/2020, bị Tòa án nhân dân thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn là 15 tháng;

* Nhân thân:

- Ngày 22/4/1991, bị xử phạt 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 tháng, về tội “Cướp tài sản công dân” theo Bản án hình sự phúc thẩm số 48 ngày 22/4/1991 của TAND tỉnh Thanh Hóa;

- Ngày 25/11/1997, bị xử phạt 09 tháng tù giam về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản công dân” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 233 ngày 25/11/1997 của TAND tỉnh Thanh Hóa;

- Ngày 20/6/2001, bị xử phạt 03 năm tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Bản án hình sự phúc thẩm số 64/HSPT ngày 20/6/2001 của TAND tỉnh Thanh Hóa;

- Ngày 21/10/2008, bị xử phạt 18 tháng tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 49/2008/HSST ngày 21/10/2008 của TAND huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa;

- Ngày 04/4/2011, bị xử phạt 26 tháng tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2011/HSST ngày 04/4/2011 của TAND huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa (Nay là TAND thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa);

- Ngày 10/10/2012, bị xử phạt 07 năm tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 115/2012/HSST ngày 10/10/2012 của TAND huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa (Nay là TAND thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa). Đến ngày 06/02/2017 chấp hành xong hình phạt tù;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/6/2021 cho đến nay (có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Phùng Văn A (tên gọi khác: Phùng Đức A) - sinh năm: 1997; nơi cư trú: Tổ dân phố H, phường H, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa (vắng mặt)

- Người làm chứng:

+ Anh Lê Trọng D - sinh năm: 1962 (vắng mặt)

+ Chị Nguyễn Thị N - sinh năm: 1977 (vắng mặt)

Đều có nơi cư trú: Tổ dân phố H, phường H, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 30 phút ngày 27/6/2021, tổ công tác của Đồn biên phòng Hải Hòa và Công an phường Hải Ninh đang làm nhiệm vụ tại đường tỉnh lộ 525, thuộc tổ dân phố H, phường H, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa, thì nhìn thấy Nguyễn Đức T điều khiển xe mô tô BKS 36C1 - 458.xy chạy trên đường ngõ hẻm thuộc tổ dân phố H, phường H, thị xã N. Tổ công tác yêu cầu Nguyễn Đức T dừng xe lại để kiểm tra, thì Nguyễn Đức T cầm 01 gói giấy màu trắng thả xuống đường. Tổ công tác yêu cầu Nguyễn Đức T nhặt gói giấy T vừa thả xuống đường lên, thì phát hiện bên trong gói giấy có 02 gói giấy màu trắng có hàng kẻ ngang, bên trong đều chứa chất bột dạng nén màu trắng ngà; Nguyễn Đức T khai đó là 02 gói ma túy Heroine. Tổ công tác của Đồn biên phòng Hải Hòa và Công an phường Hải Ninh tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ của Nguyễn Đức T toàn bộ số vật chứng trên và 01 chiếc xe mô tô BKS 36C1 - 458.xy.

Đến 16 giờ 00 phút cùng ngày, Đồn biên phòng Hải Hòa tiến hành khám xét nơi ở của Nguyễn Đức T tại tổ dân phố H, phường H, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa, thu giữ: 01 túi ni lông màu trắng đựng 02 gói giấy màu trắng có hàng kẻ ngang, bên trong đều chứa chất bột dạng nén màu trắng ngà nghi là ma túy.

Tại Kết luận giám định số 2084/PC09 ngày 29/6/2021, của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hoá kết luận:

- Chất bột dạng nén màu trắng ngà bên trong 02 gói giấy màu trắng có hàng kẻ ngang thu giữ của Nguyễn Đức T khi bắt quả tang là ma túy, có tổng khối lượng 0,233g (Không phẩy hai ba ba gam) loại: Heroine.

- Chất bột dạng nén màu trắng ngà bên trong 02 gói giấy màu trắng có hàng kẻ ngang thu giữ của Nguyễn Đức T khi khám xét nơi ở của T là ma túy, có tổng khối lượng 0,105g (Không phẩy một không năm gam) loại: Heroine.

Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Đức T khai: Nguồn gốc số ma túy trên là T mua của một người đàn ông không quen biết ở khu vực Chợ K thuộc phường H, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa vào chiều ngày 26/6/2021 với giá 100.000 đồng để sử dụng. Sau khi mua được ma túy, Nguyễn Đức T đem về nơi ở của T tại tổ dân phố H, phường H, thị xã N chia ra thành 04 gói nhỏ, sau đó cất giấu vào lỗ gạch trong nhà vệ sinh. Đến chiều ngày 27/6/2021, Nguyễn Đức T lấy 02 gói ma túy cất dấu trong nhà vệ sinh, rồi điều khiển xe mô tô BKS 36C1 - 458.xy đi tìm nơi sử dụng thì bị Đồn biên phòng Hải Hòa và Công an phường Hải Ninh bắt quả tang, thu giữ của Nguyễn Đức T toàn bộ số ma túy trên và 01 chiếc xe mô tô BKS 36C1 - 458.xy; 02 gói ma túy còn lại vẫn cất giấu ở lỗ gạch trong nhà vệ sinh.

Tại Bản cáo trạng số 114/CT-VKSNS ngày 11/8/2021, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố bị cáo Nguyễn Đức T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm c khoản 1 Điều 47 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 3; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Đức T từ 18 đến 24 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; tịch thu tiêu hủy 0,304 g ma túy, loại Heroine (là mẫu vật còn lại sau giám định) cùng toàn bộ vỏ bao niêm phong; bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, không tranh luận lại quan điểm luận tội của Đại diện Viện kiểm sát và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Nghi Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Nghi Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Phân tích những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội:

Tại phiên tòa, Nguyễn Đức T khai nhận: Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 27/6/2021, tại tổ dân phố H, phường H, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa, tổ công tác của Đồn biên phòng Hải Hòa và Công an phường Hải Ninh bắt quả tang Nguyễn Đức T tàng trữ trái phép 0,233 gam chất ma túy, loại Heroine. Ngoài số ma túy bị bắt quả tang, Đồn biên phòng Hải Hòa còn phát hiện Nguyễn Đức T có hành vi tàng trữ trái phép tại nơi ở của T là 0,105 gam chất ma túy, loại Heroine nhằm mục đích để sử dụng. Tổng khối lượng chất ma túy Nguyễn Đức T tàng trữ trái phép là 0,338 gam ma túy, loại Heroine.

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và phù hợp với lời khai người làm chứng. Do đó có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo có đủ các dấu hiệu cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất mức độ hành vi và hậu quả thấy rằng: Hiện nay trên địa bàn thị xã Nghi Sơn nói riêng, cũng như trên toàn quốc nói chung, tình trạng mua bán, tàng trữ và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy đang diễn ra khá phức tạp và có chiều hướng gia tăng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, vi phạm chế độ độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, làm gia tăng tệ nạn nghiện ma túy và cũng làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội khác. Hành vi của bị cáo làm cho nhân dân hoang mang, lo sợ. Vì vậy, cần phải tuyên cho bị cáo một hình phạt thật nghiêm và cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Nguyễn Đức T ở khu vực Chợ K thuộc phường H, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa, quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lý lịch của người này, do đó không có căn cứ để xử lý, khi nào điều tra làm rõ, sẽ xử lý sau.

[4] Xét về nhân thân và trách nhiệm hình sự:

- Tiền án: Không;

- Tiền sự 03: Ngày 11/6/2020, bị Công an phường Hải Ninh xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; ngày 21/6/2020, bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã phường và ngày 11/11/2020, bị Tòa án nhân dân thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn là 15 tháng.

- Nhân thân: Ngày 22/4/1991, bị xử phạt 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 tháng, về tội “Cướp tài sản công dân”; ngày 25/11/1997, bị xử phạt 09 tháng tù giam về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản công dân”; ngày 20/6/2001, bị xử phạt 03 năm tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; ngày 21/10/2008, bị xử phạt 18 tháng tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; ngày 04/4/2011, bị xử phạt 26 tháng tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và ngày 10/10/2012, bị xử phạt 07 năm tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, nên bị cáo được áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS làm tình tiết giảm nhẹ, lượng giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được tính khoan hồng của pháp luật.

[5] Xét về phần hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Xét về vật chứng:

- Đối với 0,304 g ma túy, loại Heroine (là mẫu vật còn lại sau giám định), hiện đang được nhập kho Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Nghi Sơn theo phiếu nhập kho số NK2021/98 ngày 16/8/2021, đây là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS để tịch thu tiêu hủy cùng toàn bộ vỏ bao niêm phong.

- Đối với chiếc xe mô tô BKS 36C1 - 458.xy thu giữ của Nguyễn Đức T khi bắt quả tang. Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô trên là tài sản hợp pháp của anh Phùng Văn A, anh A không biết việc bị cáo mượn xe để đi sử dụng ma túy. Do đó, Cơ quan điều tra Công an thị xã Nghi Sơn đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho anh Phùng Văn A là đúng quy định của pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử miễn xét.

[7] Xét về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 điều 136 BLTTHS năm 2015; Điều 3; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm c khoản 1 Điều 47 và Điều 38 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 và khoản 2 Điều 136 BLTTHS; Điều 3; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án và điểm 1 mục I bản danh mục án phí, lệ phí tòa án.

- Tuyên bố: Nguyễn Đức T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt: Nguyễn Đức T 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 27/6/2021.

- Về vật chứng: Tch thu tiêu hủy 0,304 g ma túy, loại Heroine (là mẫu vật còn lại sau giám định) cùng toàn bộ vỏ bao niêm phong, hiện đang được nhập kho Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Nghi Sơn theo phiếu nhập kho số NK2021/98 ngày 16/8/2021.

- Án phí: Bị cáo Nguyễn Đức T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

128
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 110/2021/HS-ST ngày 30/08/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:110/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Nghi Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về