TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 110/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/12/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 29 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 362/2020/TLST- HNGĐ, ngày 17 tháng 11 năm 2020 về tranh chấp Hôn nhân và Gia đình, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 148/2020/QĐXXST-HNGĐ, ngày 08 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 56/2020/QĐST, ngày 21 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: chị Nguyễn Thị Tr – sinh năm 2001.
Địa chỉ cư trú: xóm 15, xã Mỹ Thành, Yên Thành, Nghệ An.
- Bị đơn: anh Trần Văn H – sinh năm 1997.
Địa chỉ cư trú: xóm 15, xã Mỹ Thành, Yên Thành, Nghệ An.
( anh H vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 không có lý do)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện đề ngày 11/11/2020, bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án chị Nguyễn Thị Tr trình bày: chị và anh Trần Văn H đăng kí kết hôn vào ngày 13/5/2019 tại UBND xã Mỹ Thành, huyện Yên Thành. Trước khi đăng kí kết hôn anh chị đã có quá trình tìm hiểu nhau, hôn nhân là hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn anh chị sống với nhau hạnh phúc được khoảng một năm thì phát sinh mâu thuẫn và ngày càng trở nên trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn là do chị Tr phát hiện anh H ngoại tình với một người phụ nữ khác, mặc dù chị Tr đã nhiều lần khuyên nhủ nhưng anh H vẫn không thay đổi dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn. Đời sống hôn nhân vô cùng bế tắc, mục đích hôn nhân không đạt được nên hai bên đang sống ly thân. Chị xác định không còn tình cảm với anh H nữa nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H.
- Về con chung: Vợ chồng chưa có con chung, không ai nhận nuôi con nuôi nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về tài sản: Hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu tòa án giải quyết.
Về phía bị đơn anh Trần Văn H quá trình giải quyết, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh H vẫn không có mặt. Tòa án đã trực tiếp tống đạt giấy triệu tập và các văn bản tố tụng của Tòa án cho anh H theo đúng quy định của pháp luật đồng thời lập biên bản tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án cho bố đẻ của anh H là ông Trần Văn Hưng, ông Hưng đã cam kết nhận trách nhiệm giao lại cho anh H nhưng anh Hưng vẫn không có mặt, vì vậy Tòa án không tiến hành phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải và cũng không lấy lời khai của anh H được. Tuy nhiên qua tài liệu do nguyên đơn cung cấp thì tình trạng hôn nhân giữa chị Tr và anh H đúng như chị Tr trình bày.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ. Hội đồng xét xử nhận định:
1. Về tố tụng:
Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.
Trong quá trình giải quyết vụ án, toà án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho chị Tr và anh H, yêu cầu anh, chị có mặt tại Toà án để giải quyết vụ án nhưng anh H không có mặt. Vì vậy Toà án đã lập biên bản theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, làm cơ sở giải quyết vụ án.
Ngày 08/12/2020, Tòa án Quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập đến phiên toà và đã tống đạt hợp lệ cho các đương sự. Tại phiên toà lần thứ nhất ngày 21/12/2020 anh H vắng mặt không có lý do, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà. Để tiếp tục giải quyết vụ án, Toà án tiếp tục tống đạt các văn bản tố tụng phiên toà lần thứ hai cho các bên đương sự. Tuy nhiên tại phiên toà hôm nay anh H tiếp tục vắng mặt không có lý do, chị Tr có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Như vậy, anh H đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 điều 228, khoản 2 điều 227 bộ luật TTDS tiến hành xét xử vụ án vắng mặt đối với bị đơn và nguyên đơn khi có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
2. Về nội dung:
- Quan hệ hôn nhân: Xét hôn nhân giữa chị Tr và anh H là hôn nhân hợp pháp, tuân thủ theo quy định của pháp luật. Song qua xem xét thực tế thì thấy rằng cuộc sống chung của vợ chồng mới chung sống với nhau nhưng không được hạnh phúc, mâu thuẫn liên tục xảy ra và đã thực sự căng thẳng, trầm trọng, hai bên đã sống ly thân, không còn quan tâm, trách nhiệm gì với nhau nữa. Trên cở sở đó xác định tình cảm vợ chồng không còn gắn kết với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được, việc chị Tr yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh H là có căn cứ, cần chấp nhận.
- Quan hệ con chung: Hai vợ chồng chưa có con chung nên không yêu cầu giải quyết.
- Quan hệ tài sản: chị Tr không yêu cầu tòa án giải quyết nên miễn xét.
3. Về án phí: chị Tr phải nộp án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng điều 28, điều 35; khoản 1 điều 228; khoản 2 điều 227; điều 147; 266; 271; 273, 147 Bộ luật tố tụng dân sự Căn cứ điều 51; 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình;
- Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Tr được ly hôn anh Trần Văn H.
- Án phí: Căn cứ vào khoản 4 điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí tòa án.
Buộc chị Nguyễn Thị Tr phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm, án phí của chị Tr được tính trừ vào tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Yên Thành (Biên lai thu tiền số: 0002745, ngày 16 tháng 11 năm 2020), chị Tr đã nộp đủ án phí.
Án xử công khai sơ thẩm, hai bên đương sự vắng mặt. Tuyên bố để các bên đương sự biết, các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ.
Bản án 110/2020/HNGĐ-ST ngày 29/12/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình
Số hiệu: | 110/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về