TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
BẢN ÁN 109/2019/HSST NGÀY 27/06/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 27 tháng 6 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 85/2019/HSST ngày 03 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 115/2019/HSST- QĐXX ngày 12 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:
Dương Thanh D, sinh ngày 18-01-2002 tại tỉnh Vĩnh Long; Nơi đăng ký HKTT: Chưa đăng ký; Tạm trú: số 13/12 đường A, phường B, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Nơi ở: 225/10/3 đường C, phường E, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nghề nghiệp: thợ sắt; trình độ văn hoá: 4/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Thanh D, sinh năm 1971 và bà Nguyễn Thị Thanh Th, sinh năm 1982; Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện trú tại 225/10/3 đường C, phường E, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu - có mặt.
Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Ông Dương Thanh D, sinh năm: 1971 (cha ruột của bị cáo), trú tại: số 225/10/3 đường C, phường E, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu - vắng mặt; bà Nguyễn Thị Thanh Th, sinh năm 1982 (mẹ ruột của bị cáo), trú tại: 4/3 đường X, phường E, Thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt).
Người được ông Dương Thanh D ủy quyền: Bà Lê Thị D, sinh năm: 1947 (bà nội của bị cáo) – có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo: Bà Hồ Thị Hoa – Trợ giúp viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu - có mặt.
Bị hại: Anh Phạm Quang T , sinh năm 1999; trú tại: số 442/1/45D đường K, phường Sh, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu – vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ ngày 22/8/2018, Phạm Quang T, SN: 1999; trú tại: 442/1/45D đường K, phường Sh, thành phố Vũng Tàu điều khiển xe máy hiệu Exciter biển số 72C1-796.04 đến nhà Dương Thanh D rủ đi chơi Internet, D đồng ý và cùng đi với T. T chở D đến quán Internet tại địa chỉ Lô A7-2131 Trung tâm đô thị A, phường Z, Thành phố T chơi. Do không có tiền để chơi game và tiêu xài nên D nảy sinh ý định chiếm đoạt xe mô tô của T. Vì vậy khi đến tiệm Net, D hỏi mượn xe của T để đi đón bạn, T tin là thật nên cho D mượn xe. Sau khi mượn được xe, D điều khiển xe đến bãi giữ xe ở khu vực Cảng PTSC trên đường A, phường X, Thành phố T để gửi rồi quay về tiệm Internet nói với T đã bị CSGT giữ xe và hứa sẽ lo tiền đóng phạt để mang xe về trả cho T. Ngày hôm sau, D đến nhà T nói T đưa giấy tờ xe để D lấy xe về nhưng gia đình T không đồng ý và hẹn ngày 24/8/2018 sẽ cùng D đi lấy xe về. Do không lấy được giấy tờ xe từ gia đình T , D đã lên mạng facebook rao bán chiếc xe máy trên và được 01 thanh niên (không rõ lai lịch, có nick trên facebook là Thanh Th) đồng ý mua với giá 15.000.000 đồng. Sau khi bán được xe, D lấy tiền tiêu xài cá nhân. Đến ngày hẹn 24/8/2018, T không thấy D đến để đi lấy xe về nên đã trình báo cơ quan công an. Ngày 01/9/2018, T cùng gia đình phát hiện D tại Bình Dương nên đã bắt giữ và giao cho công an huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương làm việc. Cơ quan công an huyện Thuận An tỉnh Bình Dương lập hồ sơ ban đầu và chuyển cho cơ quan điều tra công an Thành phố Vũng Tàu xử lý theo thẩm quyền.
Tại Cơ quan điều tra, D đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên (Bút lục điều tra từ số 48 đến số 67). Quá trình điều tra xác định D sinh ngày 18/01/2002 nhưng do đăng ký khai sinh quá hạn nên cơ quan điều tra đưa D đi giám định về độ tuổi. Căn cứ Kết luận giám định Pháp y về độ tuổi số 294/C09B ngày 04/12/2018 của Phân viện KHHS tại TP Hồ Chí Minh xác định thời điểm D thực hiện hành vi phạm tội đã trên 16 tuổi, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 181/KL-PTCKH ngày 17/9/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng UBND Thành phố T kết luận: xe mô tô hiệu Yamaha Exciter biển số 72C1-796.04 có giá trị là 35.500.000 đồng.
Trách nhiệm dân sự: anh Phạm Quang T yêu cầu D và gia đình bồi thường giá trị tài sản lúc mua xe là 38.300.000 đồng.
Bản cáo trạng số 64/CT-VKS ngày 22-4-2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố Dương Thanh D về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi bị cáo thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 174, điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 91 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo mức án từ 06 đến 09 tháng tù; Về trách nhiệm dân sự: yêu cầu bị cáo và ông Dương Thanh D, bà Nguyễn Thị Thanh Th là cha, mẹ ruột của bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho anh Phạm Quang T số tiền là: 35.500.000 đồng.
Tại phiên tòa bị cáo và đại diện gia đình đồng ý bồi thường cho anh Phạm Quang T số tiền là: 35.500.000 đồng nên HĐXX ghi nhận sự tự nguyện bồi thường.
Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo phát biểu ý kiến: Thống nhất quan điểm của kiểm sát viên về tội danh, khung hình phạt cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức bồi thường. Về hình phạt, đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo hưởng án treo vì bị cáo còn ở độ tuổi vị thành niên, nhận thức chưa đầy đủ, hoàn cảnh gia đình khó khăn dẫn đến phạm tội.
Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng và ý kiến luận tội của Viện kiểm sát, công nhận Viện kiểm sát truy tố đúng tội danh; bị cáo không có ý kiến gì tự bào chữa cho hành vi phạm tội của mình, chỉ xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Vũng Tàu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Đối chiếu lời khai nhận của bị cáo và các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án là hoàn toàn phù hợp, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 19 giờ ngày 22/8/2018, do cần tiền chơi Internet xài cá nhân, Dương Thanh D nói dối với anh Phạm Quang T để mượn chiếc xe Exciter đi đón bạn và xe bị vi phạm giao thông nên bị Công an thu giữ. Sau đó, D đã rao bán chiếc xe Yamaha Exciter, biển số 72C1-796.04 của anh T trị giá 35.500.000 đồng cho 01 người không rõ lai lịch với giá 15.000.000 đồng rồi lên Bình Dương trốn tránh và bị bắt giữ. Vì vậy, hành vi bị cáo thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015.
[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại quyền sở hữu tài sản công dân, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương, gây tâm lý bức xúc cho nhân dân trong cộng đồng dân cư. Bị cáo còn ở độ tuổi ngồi trên ghế nhà trường nhưng không lo học tập để phấn đấu trở thành con ngoan, trò giỏi mà lại ham chơi game, bỏ học, sống lang thang ngoài xã hội dẫn đến việc phạm tội. Mặc dù không có người nào xúi giục nhưng bị cáo đã nghĩ ra thủ đoạn lừa dối rất tinh vi để chiếm đoạt tài sản của người khác bán lấy tiền tiêu xài. Trong quá trình điều tra, cha ruột của bị cáo đã từ chối bão lãnh bị cáo với lý do bị cáo hay đi lang thang nên không thể quản lý được bị cáo. Vì vậy, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, áp dụng hình phạt tù có thời hạn tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm giáo dục cải tạo riêng đối với các bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự giảm cho bị cáo một phần hình phạt.
Khi phạm tội bị cáo có độ tuổi từ 16 năm 06 tháng đến 17 năm, vì vậy khi lượng hình cần áp dụng những quy định tại khoản 1 Điều 91, khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự để quyết định mức hình phạt.
[6] Về trách nhiệm dân sự:
Buộc bị cáo Dương Thanh D phải bồi thường cho anh Phạm Quang T số tiền là: 35.500.000 đồng. Trường hợp bị cáo Dương Thanh D không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường đủ số tiền 35.500.000 đồng cho anh Phạm Quang T thì cha, mẹ của bị cáo là ông Dương Thanh D và bà Nguyễn Thị Thanh Th phải tiếp tục bồi thường cho anh Phạm Quang T đến khi đủ số tiền 35.500.000 đồng.
[7]Về án phí : Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật;
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Dương Thanh D phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
2.Áp dụng: Khoản 1 Điều 174; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 50; khoản 1 Điều 91, khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015; xử phạt Dương Thanh D 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày phải thi hành án.
3. Trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 585, khoản 1 Điều 586, khoản 1 Điều 589 Bộ luật dân sự năm 2015:
Buộc bị cáo Dương Thanh D bồi thường cho anh Phạm Quang T số tiền là 35.500.000 đồng. Trường hợp bị cáo Dương Thanh D không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường đủ số tiền 35.500.000 đồng cho anh Phạm Quang T thì cha mẹ của bị cáo là ông Dương Thanh D và bà Nguyễn Thị Thanh Th phải tiếp tục bồi thường cho anh Phạm Quang T đến khi đủ số tiền 35.500.000 đồng.
Kể từ ngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án chậm thực hiện nghĩa vụ thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chậm thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 cho đến khi thi hành án xong.
5. Án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.775.000 đ (một triệu bảy trăm bảy mươi lăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
6. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện theo pháp luật, người bào chữa, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án, các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 109/2019/HSST ngày 27/06/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 109/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/06/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về