Bản án 109/2019/HNGĐ-ST ngày 30/10/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ L, TỈNH A

BẢN ÁN 109/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/10/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 30 tháng 10 năm 2019, tại Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 492/2019/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 7 năm 2019 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 227/2019/QĐXXST-HNGĐ, ngày 20/9/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 197/2019/QĐST-HNGĐ, ngày 10/10/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Lê Văn K, sinh năm 1965. Địa chỉ: Ấp M, xã M, thành phố L, tỉnh A.

2. Bị đơn: Bà Huỳnh Thị Ngọc G, sinh năm 1963. Địa chỉ: Ấp M, xã M, thành phố L, tỉnh A. Địa chỉ liên lạc: Ấp M, xã M, thành phố L, tỉnh A.

(Ông Lê Văn K có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt; bà Huỳnh Thị Ngọc G vắng mặt lần thứ hai).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ly hôn đề ngày 20 tháng 6 năm 2019, bản tự khai cùng các lời khai trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn là ông Lê Văn K trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Vào khoảng tháng 6 năm 1993, ông và bà Huỳnh Thị Ngọc G tự tìm hiểu và chung sống với nhau. Ông bà không tổ chức lễ cưới nhưng có đăng ký kết hôn trễ hạn tại Ủy ban nhân dân xã M, thành phố L, tỉnh A vào ngày 06/8/2001. Hôn nhân lần thứ nhất của ông bà. Sau khi kết hôn, ông bà chung sống hạnh phúc khoảng 14 năm thì phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân do tính tình không hòa hợp, vợ chồng thường xuyên cự cãi và không tìm được tiếng nói chung nên ông bà đã chính thức ly thân từ đầu năm 2019 cho đến nay. Do tình cảm của vợ chồng dành cho nhau không còn nên ông yêu cầu được ly hôn với bà Huỳnh Thị Ngọc G.

- Về quan hệ con chung: Ông bà có một con chung tên Lê Trường V, sinh ngày 09/9/1997. Con chung đã trưởng thành và có khả năng lao động.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn bà Huỳnh Thị Ngọc G đã được Tòa án niêm yết Thông báo thụ lý vụ án nhưng vẫn không gửi văn bản nêu ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tòa án đã triệu tập hợp lệ bà Huỳnh Thị Ngọc G đến tham dự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và phiên hòa giải đến lần thứ hai; triệu tập đến tham dự phiên tòa đến lần thứ hai nhưng bà Huỳnh Thị Ngọc G vẫn vắng mặt không rõ lý do.

Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án, Nguyên đơn ông Lê Văn K có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt đề ngày 20/9/2019 với lý do bận công việc.

Bị đơn bà Huỳnh Thị Ngọc G vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và của đương sự như sau:

Thẩm phán chấp hành đúng quy định tại Điều 48 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Các văn bản tố tụng được tống đạt đầy đủ cho các đương sự theo quy định tại các Điều 177, Điều 179 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về xét xử vụ án. Thư ký thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đúng quy định tại Điều 51 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Nguyên đơn thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng quy định tại Điều 70 và Điều 71 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Bị đơn không có văn bản trình bày ý kiến cũng như vắng mặt tại các phiên hòa giải, phiên tòa là chưa thực hiện đúng quy định tại Điều 70, Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của ông Lê Văn K theo quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Về con chung: Ông bà có một con chung tên Lê Trường V, sinh ngày 09/9/1997. Con chung đã trưởng thành và có khả năng lao động.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về án phí: Ông Lê Văn K phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Ông Lê Văn K khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Huỳnh Thị Ngọc G nên quan hệ tranh chấp của vụ án là “Tranh chấp ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bị đơn của vụ án là bà Huỳnh Thị Ngọc G có nơi cư trú tại ấp M, xã M, thành phố L, tỉnh A nên căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh A.

Tòa án đã tiến hành biện pháp thu thập chứng cứ để xác định tình trạng cư trú của bà Huỳnh Thị Ngọc G và được Công an xã M, thành phố L, tỉnh A cung cấp thông tin: Đương sự Huỳnh Thị Ngọc G vào năm 2001 có đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp M, xã M, thành phố L, tỉnh A. Đến năm 2005 do khu dân cư ấp M, xã M bị sạt lở nên bà G về sinh sống tại ấp Mỹ An 2, xã M, thành phố L, tỉnh A. Hiện nay bà G đi làm ăn xa, thỉnh thoảng có về thăm nhà và tới lui tại địa chỉ trên. Tòa án cũng đã tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ cho bà Huỳnh Thị Ngọc G theo quy định tại Điều 177, Điều 179 Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng bà Huỳnh Thị Ngọc G vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Xét thấy, sự vắng mặt của bà Huỳnh Thị Ngọc G không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bà và không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bà Huỳnh Thị Ngọc G là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ông Lê Văn K có yêu cầu vắng mặt tại phiên tòa nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt ông Lê Văn K là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 227; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông Lê Văn K và bà Huỳnh Thị Ngọc G.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Ông Lê Văn K và bà Huỳnh Thị Ngọc G tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M , thành phố L, tỉnh A theo Giấy chứng nhận kết hôn số 124, ngày 06/8/2001 nên được pháp luật công nhận là vợ chồng theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Nguyên nhân ông Lê Văn K đưa ra để yêu cầu ly hôn bà Huỳnh Thị Ngọc G là do vợ chồng tính tình không hòa hợp, thường xuyên cự cãi và không tìm được tiếng nói chung nên ông bà đã chính thức ly thân từ đầu năm 2019 cho đến nay. Trong thời gian sống ly thân ông bà không liên lạc và không hàn gắn tình cảm vợ chồng. Ông K xác định đời sống chung giữa ông và bà G không hạnh phúc, tình cảm của ông dành cho bà G không còn nên ông yêu cầu được ly hôn với bà G.

Trong suốt quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã được tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng bà Huỳnh Thị Ngọc G vẫn vắng mặt không có lý do, không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn K. Đồng thời, bà Huỳnh Thị Ngọc G cũng không thực hiện việc cung cấp, giao nộp chứng cứ và vắng mặt trong các buổi hòa giải theo thông báo của Tòa án. Điều đó chứng tỏ bà Huỳnh Thị Ngọc G không còn quan tâm đến việc hàn gắn tình cảm gia đình với ông Lê Văn K, phù hợp với lời trình bày của ông Lê Văn K trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án.

Biên bản xác minh ngày 26 tháng 7 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố L tại Ủy ban nhân dân xã M, thành phố L, tỉnh A, thể hiện nội dung: Ông Lê Văn K và bà Huỳnh Thị Ngọc G là vợ chồng, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã M, thành phố L, tỉnh A vào ngày 06/8/2001. Trong quá trình sống chung ông bà có một con chung tên Lê Trường V, sinh ngày 09/9/1997. Con chung đã trưởng thành và có khả năng lao động. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn dẫn đến ly hôn địa phương không nắm rõ.

Điều 19 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác.

Đi chiếu quy định pháp luật như viện dẫn trên, thấy rằng, thực tế hôn nhân giữa ông Lê Văn K và bà Huỳnh Thị Ngọc G đã không còn tồn tại. Ông bà không còn sống chung và đã ly thân từ tháng đầu năm 2019 đến nay. Đồng thời, ông bà cũng không thực hiện các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với nhau. Mặt khác, về phía ông Lê Văn K mặc dù đã được Tòa án nhiều lần tạo điều kiện hòa giải với bà Huỳnh Thị Ngọc G nhưng ông Lê Văn K vẫn cương quyết ly hôn với bà Huỳnh Thị Ngọc G. Điều đó chứng tỏ hôn nhân giữa ông Lê Văn K và bà Huỳnh Thị Ngọc G đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nếu duy trì cuộc hôn nhân cũng không mang lại hạnh phúc cho cả hai. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn K được ly hôn bà Huỳnh Thị Ngọc G.

[2.2] Về con chung: Ông bà có một con chung tên Lê Trường V, sinh ngày 09/9/1997. Con chung đã trưởng thành và có khả năng lao động.

[2.3] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Ông bà trình bày không có, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[2.4] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Theo quy định tại điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì ông Lê Văn K phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn là 300.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004965 ngày 26/7/2019 của Chi Cục thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Bà Huỳnh Thị Ngọc G không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 146; khoản 4 Điều 147; Điều 186; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 232; Điều 238; Điều 271; khoản 1 Điều 273; Điều 278; khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 53; Điều 54; khoản 1 Điều 56; Điều 57, Điều 58 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Điểm a khoản 5; điểm a khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn K.

Ông Lê Văn K được ly hôn bà Huỳnh Thị Ngọc G.

Giy chứng nhận kết hôn số 124, ngày 06/8/2001 của Ủy ban nhân dân xã M, thành phố L, tỉnh A cấp mang tên Lê Văn K và Huỳnh Thị Ngọc G không còn giá trị pháp lý.

2. Về quan hệ con chung: Ông bà có một con chung tên Lê Trường V, sinh ngày 09/9/1997. Con chung đã trưởng thành và có khả năng lao động.

3. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Chưa xem xét, giải quyết.

4. Về án phí:

- Ông Lê Văn K phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hôn nhân và gia đình; nhưng được khấu trừ vào 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004965 ngày 26/7/2019 của Chi Cục thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh A. Ông Lê Văn K đã nộp đủ tiền án phí.

- Bà Huỳnh Thị Ngọc G không phải nộp tiền án phí sơ thẩm.

Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo qui định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 109/2019/HNGĐ-ST ngày 30/10/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:109/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về