Bản án 109/2019/HNGĐ-ST ngày 25/10/2019 về tranh chấp xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ CAI LẬY, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 109/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/10/2019 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN

Ngày 25 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Cai Lậy đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 156/2019/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2019 về việc “Tranh chấp xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 118/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự.

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ngọc Đ, sinh năm 1974. (Có mặt).

Địa chỉ: Số 03, khu A, phường B, thị xã C, tỉnh Tiền Giang.

2. Bị đơn: Anh Trần Thành C, sinh năm 1974. (Có đơn xin vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp M, xã T, thị xã C, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 03/5/2019 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ngọc Đ trình bày: Do mai mối chị Nguyễn Thị Ngọc Đ và anh Trần Thành C được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới với nhau vào năm 2000, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Mỹ Hạnh Trung, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang (nay là UBND xã Mỹ Hạnh Trung, thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang), theo giấy chứng nhận kết hôn số 07, quyển số I ngày 08/3/2001. Sau khi cưới về chung sống hạnh phúc đến giữa năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân bất đồng quan điểm với nhau trong cuộc sống, sống với nhau không hạp tánh tình, từ đó dẫn đến vợ chồng cãi vã nhau thường xuyên; vợ chồng ly thân và cắt đứt quan hệ vợ chồng từ đầu năm 2019 cho đến nay. Nay chị Đ yêu cầu xin được ly hôn với anh C, vì cho rằng về tình cảm vợ chồng không còn nên đoàn tụ lại sống chung không hạnh phúc.

- Về con chung: 02 con tên Trần Thùy N, sinh ngày 30/6/2003 và Trần Cát T, sinh ngày 07/7/2005, hiện các con đang sống chung với chị Đ từ khi vợ chồng ly thân cho đến nay. Nếu ly hôn chị Đ yêu cầu được tiếp tục nuôi 02 con chung, không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không có, nên không đặt ra yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Phía bị đơn anh Trần Thành C vắng mặt tại phiên tòa,nhưng có ý kiến trình bày thể hiện trong hồ sơ như sau: Về quan hệ hôn nhân: Anh C đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị Đ. Về con chung: Anh C đồng ý giao 02 con chung cho chị Đ chăm sóc nuôi dưỡng, anh C không cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Theo anh C khai không có.

Về phía đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến và cho rằng trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa hôm nay; Thẩm phán, Hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa đã thực hiện đầy đủ các thủ tục theo pháp luật tố tụng quy định, những người tham gia tố tụng chấp hành tốt về pháp luật nên không có đề nghị gì.

Về ý kiến của phía đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Ngọc Đ cho chị Nguyễn Thị Ngọc Đ được ly hôn với anh Trần Thành C.

Về con chung: Tiếp tục giao cháu Trần Thùy N, sinh ngày 30/6/2003 và Trần Cát T, sinh ngày 07/7/2005 cho chị Đ trực tiếp nuôi dưỡng, anh C không phải cấp dưỡng nuôi con do phía chị Đ chưa có yêu cầu; anh C được quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được quyền cản trở.

Về tài sản chung, nợ chung: Theo anh C và chị Đ khai không có, nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị Ngọc Đ phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở lời trình bày của các đương sự, các tài liệu chứng cứ được đưa ra xem xét tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp: Xác định đây là tranh chấp xin ly hôn.

[2] Về thủ tục tố tụng: Việc vắng mặt bị đơn anh Trần Thành C. Xét thấy, bị đơn anh C có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự. Hội đồng tiến hành xét xử vắng mặt phía bị đơn.

[3] Về yêu cầu của nguyên đơn: yêu cầu xin được ly hôn với anh Trần Thành C. Xét thấy, do mai mối chị Nguyễn Thị Ngọc Đ và anh Trần Thành C được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới với nhau vào năm 2000, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Mỹ Hạnh Trung, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang (nay là UBND xã Mỹ Hạnh Trung, thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang), theo giấy chứng nhận kết hôn số 07, quyển số I ngày 08/3/2001nên được xem là hôn nhân hợp pháp. Sau khi cưới về chung sống hạnh phúc đến giữa năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân bất đồng quan điểm với nhau trong cuộc sống, sống với nhau không hạp tánh tình, từ đó dẫn đến vợ chồng cãi vã nhau thường xuyên; vợ chồng ly thân và cắt đứt quan hệ vợ chồng từ đầu năm 2019 cho đến nay. Tại phiên tòa hôm nay, chị Đ vẫn giữ yêu cầu xin được ly hôn với anh C, vì cho rằng tình cảm vợ chồng không còn nên đoàn tụ lại sống không hạnh phúc. Anh C thì vắng mặt tại phiên tòa nhưng có ý kiến thể hiện trong hồ sơ cũng đồng ý ly hôn theo yêu cầu chị Đ. Xét thấy, trong thời gian Tòa án thụ lý vụ án, đã triệu tập phía anh C nhiều lần đến để hòa giải về việc chị Đ xin ly hôn với anh C. Nếu như về tình cảm vợ chồng, anh C muốn vợ chồng đoàn tụ lại thì anh C phải đến Tòa án gặp chị Đ, để hòa giải về tình cảm vợ chồng xem có khả năng đoàn tụ hàn gắn lại được hay không, nhưng phía anh C không đến mà có ý kiến cũng đồng ý ky hôn, thể hiện anh C không còn quan tâm đến tình cảm vợ chồng đối với chị Đ. Cho thấy, về tình cảm vợ chồng giữa anh C và chị Đ đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được; nên Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở để chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Đ và cho chị Nguyễn Thị Ngọc Đ được ly hôn với anh Trần Thành C.

[4] Về con chung: 02 con tên Trần Thùy N, sinh ngày 30/6/2003 và Trần Cát T, sinh ngày 07/7/2005, hiện con đang sống chung với chị Đ từ khi vợ chồng ly thân cho đến nay. Nếu ly hôn chị Đ yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, cháu Trang và cháu Tường do chị Đ nuôi dưỡng từ khi anh C và chị Đ ly thân với nhau cho đến nay đã ổn định về mọi mặt. Hơn nữa, qua tham khảo lời khai của cháu Trang và cháu Tường đều có nguyện vọng sống chung với chị Đ, nên Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở giao cháu Trần Thùy N và cháu Trần Cát T cho chị Đ trực tiếp nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con do phía chị Đ chưa có yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét để giải quyết; nếu sau này chị Đ có yêu cầu cấp dưỡng nuôi con thì chị Đ được quyền khởi kiện bằng một vụ kiện khác khi có đơn yêu cầu.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Theo anh C và chị Đ khai không có, không đặt ra yêu cầu Tòa án giải quyết; nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét để giải quyết.

[6] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Ngọc Đ phải chịu 300.000 đồng án phí xin ly hôn theo quy định tại điểm a, khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[7] Xét ý kiến và đề nghị của phía đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang là có căn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận đề nghị của phía đại diện Viện kiểm sát.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, 271, 272 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Ngọc Đ. Cho chị Nguyễn Thị Ngọc Đ được ly hôn với anh Trần Thành C.

2. Về con chung: Tiếp tục giao cháu Trần Thùy N, sinh ngày 30/6/2003 và Trần Cát T, sinh ngày 07/7/2005 cho chị Đ trực tiếp nuôi dưỡng; anh C không phải cấp dưỡng nuôi con do phía chị Đ chưa có yêu cầu; anh C được quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được quyền cản trở.

3. Về án phí: Buộc chị Nguyễn Thị Ngọc Đ phải chịu 300.000 đồng án phí xin ly hôn, nhưng được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí mà chị Đ đã nộp theo biên lai thu số 0002291 ngày 03/5/2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự thị xã Cai Lậy; nên chị Đ đã nộp xong án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ngọc Đ có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị đơn anh Trần Thành C thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 109/2019/HNGĐ-ST ngày 25/10/2019 về tranh chấp xin ly hôn

Số hiệu:109/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Cai Lậy - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về