Bản án 109/2019/HNGĐ-ST ngày 11/11/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn, nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG RIỀNG, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 109/2019/HNGĐ-ST NGÀY 11/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH - LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 11 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 374/2019/TLST- HNGĐ, ngày 26 tháng 8 năm 2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình-ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 112/2019/QĐXXST- HNGĐ ngày 10 tháng 10 năm 2019. Giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Thùy L, sinh năm: 1990; địa chỉ cư trú: Khu vực Thới Thuận, phường Thới An Đông, quận Bình Thủy, Thành phố Cần Thơ (có mặt)

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Trúc A, sinh năm: 1988; địa chỉ cư trú: Ấp Thạnh Vinh, xã Thạnh Lộc, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 25/02/2019, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn Chị Phạm Thị Thùy L trình bày:

Chị và Anh Nguyễn Trúc A tự tìm hiểu quen biết nhau, được cha mẹ hai bên đồng ý tổ chức lễ cưới vào năm 2016, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Thạnh Lộc, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang vào ngày 07/4/2016.

Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng về sau thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do Anh Trúc A thường hay ghen tuông vô cớ và đánh đập chị. Vì nghĩ thương con nên chị cố gắng chịu đựng và khuyên nhủ hi vọng Anh Trúc Asẽ thay đổi, nhưng Anh Trúc A vẫn không sửa đổi. Chị và anh Trúc Anh đã sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay Trong quá trình chung sống chị và Anh Trúc A có một con chung tên Nguyễn Ngọc Bảo Châu, sinh ngày: 16/5/2014. Hiện nay con đang chung sống với anh Trúc Anh, do Anh Trúc A nuôi dưỡng.

Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Không có Nay chị L khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết cho chị được ly hôn với Anh Nguyễn Trúc A. Về con chung: Tại phiên tòa chị L đồng ý giao con Nguyễn Ngọc Bảo Châu, sinh ngày: 16/5/2014 cho Anh Trúc A tiếp tục nuôi dưỡng, chị L không phải cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung: Chị L không yêu cầu giải quyết. Nợ chung: Không có.

Anh Trúc A đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án nhưng hết thời gian quy định vẫn không gửi văn bản nêu ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tòa án đã triệu tập Anh Trúc A đến tham dự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải đến lần thứ hai và triệu tập đến tham dự phiên tòa đến lần thứ hai nhưng Anh Trúc A vẫn vắng mặt, không rõ lý do.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Chị L khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với Anh Trúc A nên đây là “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình – ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Anh Trúc A là bị đơn trong vụ án có nơi cư trú tại huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Anh Trúc A đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt Anh Trúc A theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

- Xét về hôn nhân: Chị L và Anh Trúc A chung sống với nhau vào năm 2016, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại tại Ủy ban nhân dân xã Thạnh Lộc, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang, được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 65 ngày 07/4/2016 nên hôn nhân của anh, chị là hợp pháp. Xét thấy anh, chị đã không quan tâm, chăm sóc, lo lắng cho nhau từ năm 2017 đến nay nên đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chị L yêu cầu được ly hôn với Anh Trúc A là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

- Về con chung: Tại phiên tòa chị L đồng ý giao con Nguyễn Ngọc Bảo Châu, sinh ngày: 16/5/2014 cho Anh Trúc A tiếp tục nuôi dưỡng, chị L không phải cấp dưỡng nuôi con. Xét yêu cầu này của chị L là có cơ sở chấp nhận - Xét thấy hiện nay dưới sự chăm sóc, giáo dục của anh Trúc Anh, cháu Ngọc đang sinh sống ổn định và phát triển bình thường. Anh Trúc A cũng có đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Xét yêu cầu giao con cho Anh Trúc A của chị L là phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình nên được Tòa án ghi nhận. Chị L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Về tài sản chung: Chị L không yêu cầu giải quyết.

- Về nợ chung: Không có.

[3] Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị L yêu cầu xin ly hôn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số 0006496 ngày 26/8/2019 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 01 Điều 228, Điều 266, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình;

Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho Chị Phạm Thị Thùy L được ly hôn với Anh Nguyễn Trúc A.

2. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Ngọc Bảo Châu, sinh ngày: 16/5/2014 cho Anh Nguyễn Trúc A tiếp tục nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành (trừ trường hợp thay đổi quyền nuôi con theo quy định của pháp luật). Chị Phạm Thị Thùy L có quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, dạy dỗ con chung không ai có quyền cản trở. Anh Trúc A không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án không giải quyết.

3. Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

4. Về nợ chung: Không có

5. Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn Chị Phạm Thị Thùy L phải nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị L đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí 0006496 ngày 26/8/2019 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 11/11/2019, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

151
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 109/2019/HNGĐ-ST ngày 11/11/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn, nuôi con

Số hiệu:109/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Riềng - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về