Bản án 109/2018/HNGĐ-ST ngày 22/05/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂNTHÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 109/2018/HNGĐ-ST NGÀY 22/05/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Hôm nay, ngày 22 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 414/2018/TLST -HNGĐ ngày 12 tháng 3 năm 2018 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 133/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 02/5/2018 giữa:

1. Nguyên đơn: Bà Lê T, sinh năm 1986.

Địa chỉ: 204, Cư xá L, phường 1, Quận 4, thành phố H.

2. Bị đơn: Ông Trần Ngọc Khánh L, sinh năm 1986.

Địa chỉ: 24/53, khu phố 2, phường Q, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.(Bà T, ông L có đơn vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 13/12/2017 và bản tự khai nguyên đơn bà Lê T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Trần Ngọc Khánh L tự nguyện kết hôn và chung sống với nhau vào năm 2016, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Q, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Quá trình vợ chồng chung sống hạnh phúc thời gian đầu thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vã. Vợ chồng đã cố gắng giải quyết mâu thuẫn với nhau nhưng tình hình vẫn không cải thiện. Hai vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 4 năm 2017 đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, nên bà xin ly hôn với ông Trần Ngọc Khánh L để trả tự do cho nhau.

Về con chung: Không có.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại bản tự khai bị đơn ông Trần Ngọc Khánh L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông và bà Lê T tự nguyện kết hôn và chung sống với nhau vào năm 2016, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Q, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Quá trình vợ chồng chung sống hạnh phúc thời gian thì phát sinh mâu thuẫn do bà T luôn tạo áp lực về mặt kinh tế vì cuộc sống hai vợ chồng có thu nhập thấp. Hai vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 4 năm 2017 cho đến nay. Nay bà T xin ly hôn thì ông không đồng ý vì còn thương yêu vợ, không muốn gia đình đổ vỡ và ông theo đạo công giáo nên không được ly hôn.

Về con chung: Không có.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa:

Về thủ tục tố tụng: Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, kể từ khi thụ lý vụ án là phù hợp, đúng với quy định của pháp luật. Nguyên đơn, bị đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về quan hệ hôn nhân: Xét cuộc sống vợ chồng của bà T, ông L không hạnh phúc, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T.

- Về con chung: Không có, không đặt ra xem xét giải quyết

- Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không đặt ra xem xét, giải quyết.

- Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà T phải nộp án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

* Sau khi nghiên cứu hồ sơ và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về thẩm quyền: Bà T xin ly hôn với ông L có địa chỉ cư trú tại: 24/53, khu phố 2, phường Q, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố B có thẩm quyền giải quyết.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, bà T, ông L có đơn xin xét xử vắng mặt nên tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà T, ông L theo quy định tại Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà T và ông L kết hôn với nhau vào năm 2016, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Q, thành phố B, tỉnh Đồng Nai (theo giấy chứng nhận kết hôn số 117, ngày 12/12/2016) nên xác định là hôn nhân hợp pháp.

Bà T trình bày: Sau khi xây dựng gia đình với nhau, thời gian đầu vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc nhưng sau đó thì xảy ra nhiều mâu thuẫn, thường xuyên cãi vã. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vã. Ông L cũng thừa nhận vợ chồng bất đồng quan điểm do bà T luôn tạo áp lực về mặt kinh tế vì cuộc sống hai vợ chồng có thu nhập thấp nhưng ông không đồng ý ly hôn vì còn thương vợ và do ông theo đạo không được ly hôn.

Qua xác minh tại địa phương được biết vợ chồng ông L, bà T đã sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay.

Xét mâu thuẫn giữa bà T và ông L là có thật. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T, giải quyết cho bà T được ly hôn với ông L để trả tự do cả hai là phù hợp.

- Về con chung: Không có, không đặt ra xem xét, giải quyết.

- Về tài sản chung: Không có, không đặt ra xem xét, giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không đặt ra xem xét giải quyết.

- Về án phí: Bà T phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B tại phiên tòa phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 228, 233, 235, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Căn cứ vào các Điều 51, 56, 57 Luật Hôn nhân và gia đình.

- Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu “Ly hôn” của bà Lê T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê T được ly hôn với ông Trần Ngọc Khánh L.

2. Về con chung: Không có, không đặt ra xem xét giải quyết.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Lê T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng), được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B theo biên lai thu số 006451 ngày 28/02/2018.

5. Bà Lê T và ông Trần Ngọc Khánh L vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 109/2018/HNGĐ-ST ngày 22/05/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:109/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về