Bản án 109/2017/DS-ST ngày 25/08/2017 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 109/2017/DS-ST NGÀY 25/08/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Vào ngày 25 tháng 8 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 508/2017/TLST-DS ngày 13 tháng 7 năm 2017 về tranh chấp hợp đồng tín dụng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 137/2017/QĐXXST-DS ngày 17 tháng 8 năm 2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP V; địa chỉ: Số 89 đường L, phường L, quận Đ, thành phố H.

Người đại diện hợp pháp: Anh Đoàn Văn M, sinh năm 1990; địa chỉ: 225/6C khu phố Đ, phường T, thị xã T, tỉnh B, là người đại diện theo ủy quyền (theo văn bản ngày 03/7/2017), có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Chị Phạm Ngọc L, sinh năm 1987; địa chỉ: 1A/2 đường B, khu phố T, phường T, thị xã D, tỉnh B, có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 03/7/2017 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn là anh Đoàn Văn M trình bày:

Ngày 26/7/2014, chị Phạm Ngọc L và Ngân hàng TMCP V (gọi tắt Ngân hàng) ký đơn đề nghị mở tài khoản, phát hành thẻ ghi nợ, vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng số 20140804 – 100116 - 0013 vay số tiền 23.100.000đồng, lãi suất 3.75%/tháng, mục đích vay tiêu dùng cá nhân, trả chậm trong vòng 24 tháng, 23 tháng đầu trả 1.477.000đồng, tháng cuối cùng trả 1.460.000đ, thanh toán vào ngày 06 hàng tháng, bắt đầu thanh toán từ ngày 06/9/2014. Thực hiện hợp đồng, chị Phạm Ngọc L đã thanh toán được 13 lần là 19.212.000đồng. Kể từ ngày 15/9/2015, chị Phạm Ngọc L không thanh toán cho ngân hàng.

Trong đơn đề nghị mở tài khoản, phát hành thẻ ghi nợ, vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng giữa chị Phạm Ngọc L với Ngân hàng có ghi tên anh Phạm Tấn L và chị L (là em trai và đồng nghiệp), mục đích để tham chiếu và thuận tiện liên lạc. Anh Phạm Tấn L và chị L không phải là người vay tiền. Tính đến thời điểm khởi kiện, chị Phạm Ngọc L còn nợ Ngân hàng số tiền còn nợ là 16.219.000đồng; trong đó: nợ gốc 13.103.513đồng và nợ lãi 3.115.487đồng. Nay Ngân hàng yêu cầu chị Phạm Ngọc L phải thanh toán số tiền trên.

Tại bản tự khai ngày 27/7/2017 và lời khai trong quá trình tố tụng, chị Phạm Ngọc L trình bày:

Chị Phạm Ngọc L thống nhất với n i dung trình bày của người đại diện hợp pháp của Ngân hàng về nội dung hợp đồng tín dụng, số tiền vay, quá trình trả nợ, số tiền còn nợ. Tuy nhiên, chị Phạm Ngọc L gặp khó khăn về kinh tế nên đã không thanh toán cho Ngân hàng theo đúng thỏa thuận. Nay chị Phạm Ngọc L đồng ý trả cho Ngân hàng số tiền còn nợ là 16.219.000đồng; trong đó: nợ gốc 13.103.513đồng và nợ lãi 3.115.487đồng, nhưng do hoàn cảnh khó khăn, chị xin trả dần mỗi tháng 1.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1] Ngân hàng TMCP V khởi kiện yêu cầu chị Phạm Ngọc L có địa chỉ tại 1A/2 đường B, khu phố T, phường T, thị xã D, tỉnh B phải trả số tiền nợ 16.219.000đồng phát sinh từ đơn đề nghị mở tài khoản, phát hành thẻ ghi nợ, vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng ngày 26/7/2014. Vì vậy, đây là vụ án Tranh chấp hợp đồng tín dụng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương được quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thời hiệu khởi kiện: Theo quy định tại Điều 429 Bộ luật Dân sự 2015 thìThời hiệu khởi kiện….tranh chấp hợp đồng ngày người có quyền yêu cầu quyền và lợi ích hợp pháp của m nh bị xâm phạm . Từ ngày 15/9/2015, chị Phạm Ngọc L không thanh toán tiền gốc và lãi theo thỏa thuận. Ngày 06/7/2017, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu thanh toán số tiền còn nợ nên thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng tín dụng vẫn còn.

[3] Xét Đơn đề nghị mở tài khoản, phát hành thẻ ghi nợ, vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng ngày 26/7/2014 được giao kết giữa Ngân hàng với chị Phạm Ngọc L đã thể hiện ý chí tự nguyện thỏa thuận giữa hai bên. Quá trình thực hiện hợp đồng, chị Phạm Ngọc L đã thanh toán cho Ngân hàng được 13 lần là 19.212.000đồng. Kể từ ngày 15/9/2015 đến thời điểm Ngân hàng khởi kiện, cho Phạm Ngọc L không thanh toán tiếp số tiền nợ đến hạn, như vậy chị Phạm Ngọc L đã vi phạm nghĩa vụ trả tiền gốc và lãi theo thỏa thuận. Số tiền nợ và quá trình trả nợ cũng được chị Phạm Ngọc L thừa nhận nên đây là tình tiết chứng cứ không cần phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Vì vậy, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu chị Phạm Ngọc L phải trả số tiền nợ là 16.219.000đồng; trong đó: tiền nợ gốc 13.103.513đồng;tiền lãi đến hạn 3.115.487đồng là có căn cứ chấp nhận

[4] Do Đơn đề nghị mở tài khoản, phát hành thẻ ghi nợ, vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng ngày 26/7/2014 không thỏa thuận về lãi quá hạn nên để bảo đảm quyền lợi của bên được thi hành án, trong trường hợp này bên phải thi hành án chậm thanh toán đối với nghĩa vụ trả tiền, cần buộc bên có nghĩa vụ trả tiền phải có trách nhiệm trả tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015.

[5] Đối với yêu cầu của chị Phạm Ngọc L đề nghị Ngân hàng cho trả dần số nợ trên mỗi tháng 1.000.000đ nhưng Ngân hàng không đồng ý nên không có cơ sở chấp nhận.

[6] Từ những phân tích trên, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Phạm Ngọc L phải chịu theo quy định của Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 144, Điều 147, Điều 228, Điều 238 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

Căn cứ Điều 357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015; Căn cứ Điều 91 và Điều 95 của Luật Các tổ chức tín dụng 2010;

Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

1. Buộc chị Phạm Ngọc L có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng TMCP V số tiền còn nợ phát sinh từ đơn đề nghị mở tài khoản, phát hành thẻ ghi nợ, vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng ngày 26/7/2014 là 16.219.000 (mười sáu triệu hai trăm mười chín nghìn) đồng; trong đó: Nợ gốc 13.103.513 (mười ba triệu một trăm lẻ ba nghìn năm trăm mười ba) đồng và nợ lãi 3.115.487 (ba triệu một trăm mười lăm nghìn bốn trăm tám mươi bảy) đồng.

2. Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Phạm Ngọc L phải chịu 810.950 (tám trăm mười nghìn chín trăm năm mươi) đồng. Hoàn trả cho Ngân hàng TMCP V số tiền 406.000 (bốn trăm linh sáu nghìn) đồng tạm ứng án phí đã n p theo biên lai thu tiền số 0009830 ngày 12/7/2017 của Chi cục thi hành án Dân sự thị xã Dĩ An.

3. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015.

4. Ngân hàng TMCP V và chị Phạm Ngọc L vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 109/2017/DS-ST ngày 25/08/2017 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:109/2017/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về