Bản án 108/2020/HS-ST ngày 28/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

 BẢN ÁN 108/2020/HS-ST NGÀY 28/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

 Ngày 28 tháng 5 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 109/2020/TLST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 126/2020/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1986 tại Vũng Tàu; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú:

27/7 H, phường R, thành phố V, tỉnh B; Chỗ ở: phòng trọ nhà số 63Đ, phường T, thành phố V, tỉnh B; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 3/12; Dân tộc: Kinh;

Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn H (đã chết) và bà Nguyễn Thị H; Tiền sự: Không; Tiền án: Năm 2017, bị Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 03/2017/HSST ngày 03 – 01 – 2017, chấp hành xong hình phạt ngày 01 – 9 – 2017 nhưng chưa nộp án phí hình sự, án phí dân sự và bồi thường thiệt hại.

Bị bắt ngày 20 – 02 – 2020 (có mặt tại phiên tòa).

Bị hại: Bà Trần Thị L, sinh năm 1966; địa chỉ hiện nay: 775/3 B, phường X, thành phố V, tỉnh B(vắng mặt – có đơn xin xét xử vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Hoàng Văn T, sinh năm 1980; địa chỉ: 907/2/52 B, phường X, thành phố V, tỉnh B (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 30 phút, ngày 10 – 12 – 2019, Nguyễn Văn Đ đi xe đạp vòng quanh các khu phòng trọ trên phường 10, thành phố Vũng Tàu tìm tài sản của người dân có sơ hở để lấy trộm. Đ đạp xe đến dãy phòng trọ nhà số 775/3 Bình Giã, phường 10, thành phố Vũng Tàu để xe đạp bên ngoài cổng và đi vào quan sát. Đ thấy phòng trọ số 1 của bà Trần Thị L không khóa cửa (ổ khóa móc vào khoen cửa nhưng không bấm khóa), quan sát xung quanh không có người qua lại nên Đ lén lút mở cửa phòng đi vào bên trong rồi đi lên gác lửng lấy trộm một chiếc điện thoại di động màu xanh lục, hiệu OPPO F11 và số tiền 5.000.000đ (năm triệu đồng) để dưới chiếc gối rồi ra ngoài lấy xe đạp tẩu thoát. Sau khi trộm được tài sản, Đ đến cửa hàng mua bán, sửa chữa điện thoại Hoàng Tiến tại 760 Bình Giã, phường 10, thành phố Vũng Tàu bán chiếc điện thoại cho anh Hoàng Văn T (chủ tiệm) được số tiền 350.000đ (ba trăm năm mươi ngàn đồng). Ngày 19 – 01 – 2020, anh Tiến đã bán chiếc điện thoại trên với giá 650.000đ (sáu trăm năm mươi ngàn đồng) cho một người đàn ông khoảng 40 tuổi không rõ lai lịch.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 66/KL-HĐĐG-TTHS ngày 25 – 03 – 2020 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự thành phố Vũng Tàu kết luận: chiếc điện thoại di động hiệu OPPO F11 có trị giá 2.500.000đ (hai triệu năm trăm ngàn đồng).

Việc thu giữ và xử lý vật chứng: Cơ quan chức năng tiến hành thu giữ 01 chiếc xe đạp nữ màu xám (bạc) đã cũ; 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) là tiền do anh Hoàng Văn T tự nguyện giao nộp. Tất cả số vật chứng nêu trên được cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Vũng Tàu chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu quản lý, chờ xử lý.

Về trách nhiệm dân sự: Bà Trần Thị L yêu cầu bị cáo phải bồi thường 7.500.000đ (bảy triệu năm trăm ngàn đồng).

Đối với anh Hoàng Văn T khi mua không biết tài sản do Đ phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không xử lý về hình sự.

Bản cáo trạng số 120/CT-VKSTPVT ngày 27 tháng 4 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn Đ về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn Đ về tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 173; điểm h Khoản 1 Điều 52; điểm s Khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ từ 12 đến 18 tháng tù; Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 chiếc xe đạp nữ màu xám (bạc) đã cũ do Đ sử dụng làm phương tiện trộm cắp tài sản; 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) là tiền thu lợi bất chính do anh Hoàng Văn T tự nguyện giao nộp. Về trách nhiện dân sự: bị cáo phải bồi thường cho bà Luyện số tiền 7.500.000đ (bảy triệu năm trăm ngàn đồng).

Bị cáo Nguyễn Văn Đ đã khai nhận về toàn bộ hành vi của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã truy tố và không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về kết luận giám định hay các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Bị cáo đã thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, tỏ ra ăn năn, hối cải, đồng ý bồi thường thiệt hại theo yêu cầu của bị hại và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố. Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 13 giờ 30 phút, ngày 10 tháng 12 năm 2019, tại phòng trọ số 1 của dãy nhà trọ số 775/3 Bình Giã, phường 10, thành phố Vũng Tàu, Nguyễn Văn Đ đã có hành vi trộm cắp một chiếc điện thoại di động màu xanh lục hiệu OPPO F11 có trị giá 2.500.000đ (hai triệu năm trăm ngàn đồng) và số tiền 5.000.000đ (năm triệu đồng). Tổng trị giá tài sản mà Đ chiếm đoạt là 7.500.000đ (bảy triệu năm trăm ngàn đồng).

Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Văn Đ đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng đối với hành vi phạm tội của bị cáo:

Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội; đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ; gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo là người đã trưởng thành, đã từng bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo biết việc chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện nhằm mục đích có tiền tiêu xài cá nhân nên cần phải xử lý nghiêm, áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm đối với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm cải tạo, giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà cải tạo cho tốt, làm người có ích cho gia đình và xã hội.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại - bà Trần Thị L yêu cầu bị cáo phải bồi thường 7.500.000đ (bảy triệu năm trăm ngàn đồng), bị cáo đồng ý nên Hội đồng xét xử ghi nhận, buộc bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường cho bà Luyện số tiền 7.500.000đ (bảy triệu năm trăm ngàn đồng).

[6] Về xử lý vật chứng vụ án:

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 chiếc xe đạp nữ màu xám (bạc) đã cũ do Đ sử dụng làm phương tiện trộm cắp tài sản; 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) là tiền thu lợi bất chính do anh Hoàng Văn T tự nguyện giao nộp.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp 375.000đ (ba trăm bảy mươi lăm ngàn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Khoản 1 Điều 173, điểm h Khoản 1 Điều 52, điểm s Khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố: Nguyễn Văn Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Nguyễn Văn Đ 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 20 tháng 02 năm 2020.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 584, Điều 585, Điều 589 Bộ luật Dân sự:

Buộc bị cáo Nguyễn Văn Đ có trách nhiệm bồi thường cho bà Trần Thị L 7.500.000đ (bảy triệu năm trăm ngàn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 chiếc xe đạp nữ màu xám (bạc) đã cũ;

300.000đ (ba trăm ngàn đồng). Vật chứng nêu trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu đang quản lý theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 127/BB.THA ngày 06 tháng 5 năm 2020 và biên lai thu tiền số 0000796 ngày 06 tháng 5 năm 2020.

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Văn Đ phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng).

Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Văn Đ phải nộp 375.000đ (ba trăm bảy mươi lăm ngàn đồng).

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bán án được niêm yết công khai để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 108/2020/HS-ST ngày 28/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:108/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về