Bản án 108/2020/HS-ST ngày 21/07/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 108/2020/HS-ST NGÀY 21/07/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 21 tháng 07 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 102/2020/TLST-HS ngày 17 tháng 06 năm 2020 theo Quyết định đưa ra xét xử số 98/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 06 năm 2020, đối với bị cáo:

Lò Văn C, sinh năm 1999; đăng ký hộ khẩu thường trú: Bản S, xã Q, huyện T, tỉnh Đ; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 10/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; họ tên cha: Lò Văn T; họ tên mẹ: Lò Thị M; gia đình có 07 anh chị em, bị cáo là con thứ bẩy; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và bị tạm giữ từ ngày 12/3/2020 đến ngày 21/3/2020 chuyển tạm giam. Hiện đang bị áp dụng biện pháp tạm giam tại Trại tạm giam số 2, Công an thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Tòng Văn H, sinh năm 1990; ĐKHKTT: Bản N, xã C, huyện M, tỉnh S, vắng mặt tại phiên tòa.

2. Anh Lường Văn N, sinh năm 1979; ĐKHKTT: B, xã K, huyện T, tỉnh L, vắng mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo là: Ông Lê Quang Đạo – Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 19 giờ 30 phút ngày 11/03/2020, tổ công tác Công an xã Đa Tốn, thuộc Công an huyện Gia Lâm làm nhiệm vụ tại khu vực đường gom thôn Ngọc Động, Đa Tốn, Gia Lâm, Hà Nội, kiểm tra 02 đối tượng có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy là Tòng Văn H, sinh năm 1990; trú tại: Chiềng Lao, Mường La, Sơn La và Lường Văn N, sinh năm 1979, trú tại: Khoen On, Than Uyên, Lai Châu đang điều khiển xe máy BKS 33M8-5494 nhãn hiệu Yamaha - Jupiter. Quá trình kiểm tra phát hiện trong túi quần bên trái phía trước của N đang mặc có 01 bơm xilanh kim tiêm đã qua sử dụng; trong túi áo khoác bên trái của H đang mặc có 01 bơm xilanh kim tiêm đã qua sử dụng. Cả H và N đều khai nhận vừa sử dụng ma túy, nguồn gốc ma túy là do vào khoảng 19 giờ ngày 11/3/2020, H và N đến khu vực lán trọ ở Ngọc Động, Đa Tốn, Gia Lâm, Hà Nội, H mua của Lò Văn C 01 gói ma túy Heroine với giá 100.000 đồng.

Về vật chứng thu giữ, gồm:

- Thu giữ của Tòng Văn H: 01 xi lanh kim tiêm đã qua sử dụng, 01 ví da màu nâu bên trong có CMND mang tên Tòng Văn H; 01 điện thoại Nokia, đã qua sử dụng lắp sim 0985703126, 01 xe máy BKS 33M8-5494 nhãn hiệu Yamaha - Jupiter V, màu đỏ, đã qua sử dụng:

- Thu giữ của Lường Văn N: 01 xi lanh kim tiêm đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động Nokia 105, lắp sim 0867707263, đã qua sử dụng.

Đến khoảng 21 giờ 45 phút cùng ngày 11/3/2020, Công an xã Đa Tốn thân dẫn Tòng Văn H đến khu vực cầu Ngọc Động, Đa Tốn, Gia Lâm là nơi Tòng Văn H mua ma túy của Lò Văn C trước đó. Khi đến nơi, cơ quan Công an kiểm tra Lò Văn C, C đã tự nguyện lấy từ trong túi quần bên trái phía trước C đang mặc 01 túi nilon màu trắng kích thước 12cmx8cm bên trong có 04 gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng. C đã khai nhận đó là số ma túy Heroine dùng để bán kiếm lời và giao nộp cho Cơ quan Công an.

Vật chứng thu giữ của Lò Văn C, gồm: 01 túi nilon màu trắng kích thước 12cmx8cm bên trong có 04 gói giấy bạc màu trắng bên trong đều chứa chất bột màu trắng; 01 điện thoại OPPO lắp sim số 0859000318 và 0923054311, đã qua sử dụng; 01 ví da màu nâu bên trong có số tiền 1.400.000 đồng.

Tại Kết luận giám định số 2175/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội ngày 20/03/2020 kết luận: 01 xi lanh kim tiêm (thu giữ của Lường Văn N) có dính ma túy loại Heroine; 01 xilanh kim tiêm (thu giữ của Tòng Văn H) có dính ma túy loại Heroine; Chất bột màu trắng bên trong có 04 gói giấy bạc màu trắng (thu giữ của Lò Văn C) đều là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng: 0,378 gam.

Tại cơ quan điều tra, Lò Văn C khai nhận: Khoảng 13 giờ ngày 11/03/2020, C đi bộ ra khu vực gầm cầu đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng mục đích mua ma túy để bán lại kiếm lời. Tại đây, C gặp và mua của một người đàn ông (không rõ nhân thân) 05 gói ma túy Heroine với giá 400.000 đồng (80.000 đồng/01 gói). Sau khi mua được ma túy, C cất số ma túy mua được vào túi quần bên trái phía trước C đang mặc và đi về lán trọ ở Ngọc Động, Đa Tốn, Gia Lâm. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, H đến gặp C và C đã bán cho H 01 gói ma túy Heroine giá 100.000 đồng. Còn 04 gói ma túy Heroine, C cất giữ trong người mục đích để bán kiếm lời.

Đối với Tòng Văn H và Lò Văn N là đối tượng nghiện ma túy, khối lượng ma túy Heroine còn dính ở 02 xilanh thu giữ của H và N không đủ để định lượng nên không cấu thành tội phạm. Ngày 01/4/2020, Tòng Văn H và Lường Văn N đã bị Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Đối với đối tượng bán ma túy cho bị cáo Lò Văn C, do không xác định được nhân thân, nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Đối với chiếc xe máy BKS 33M8-5494 nhãn hiệu Yamaha, màu đỏ-trắng, đã qua sử dụng thu giữ của Tòng Văn H. Qua xác minh đứng tên đăng ký xe là anh Nguyễn Văn Thông, địa chỉ: Bắc Lâm, Phú Lương, Hà Đông mua từ năm 2005, đến khoảng tháng 7/2019 anh Thông đã bán lại cho một người đàn ông (không rõ nhân thân). Anh Vũ Văn Phong, sinh năm 1984; trú tại: Đàn Viên, Cao Viên, Thanh Oai, Hà Nội đã mua chiếc xe khoảng tháng 7/2019 của một người đàn ông (không rõ nhân thân). Ngày 11/3/2020, anh Phong khi cho H mượn chiếc xe máy BKS 33M8-5494 không biết H sử dụng xe để đi mua ma túy. Theo kết quả tra cứu xe máy vật chứng của Công an huyện Gia Lâm thì chiếc xe máy nói trên không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng.

Do vậy, ngày 01/06/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Gia Lâm đã trả chiếc xe máy trên cho anh Vũ Văn Phong.

Đối với số tiền 1.400.000 đồng thu giữ của bị cáo Lò Văn C, bị cáo khai trong đó 100.000 đồng là tiền do bán ma túy cho H mà có, còn 1.300.000 đồng là của bị cáo C không liên quan đến hành vi phạm tội.

Đối với chiếc điện thoại di động OPPO là tài sản của bị cáo C không liên quan đến hành vi phạm tội.

Tại bản Cáo trạng số 92/CT-VKSGL ngày 12 tháng 06 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố bị cáo Lò Văn C về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra và Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Gia Lâm tham gia phiên tòa luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố theo Cáo trạng; sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Lò Văn C từ 28 tháng đến 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 11/03/2020; không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu và tiêu huỷ số ma túy thu giữ của bị cáo; tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền 100.000 đồng thu giữ của Lò Văn C; hoàn trả Lò Văn C số tiền 1.300.000 đồng; 01 ví da màu nâu và 01 điện thoại OPPO lắp sim số 0859000318 và 0923054311, đã qua sử dụng do không có liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo; tịch thu, tiêu hủy 01 xi lanh kim tiêm đã qua sử dụng thu giữ của Tòng Văn H; tịch thu, tiêu hủy 01 xi lanh kim tiêm đã qua sử dụng thu giữ của Lường Văn N; hoàn trả Tòng Văn H: 01 ví da màu nâu bên trong có CMND mang tên Tòng Văn H, 01 điện thoại Nokia, đã qua sử dụng lắp sim 0985703126; hoàn trả Lường Văn N 01 điện thoại di động Nokia 105, lắp sim 0867707263, đã qua sử dụng.

Người bào chữa cho bị cáo có quan điểm như sau: Nhất trí về tội danh và điều luật áp dụng đối với hành vi phạm tội của bị cáo theo Cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố. Bị cáo là người dân tộc thiểu số sống trong vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nên nhận thức pháp luật còn hạn chế. Tại các cơ quan tiến hành tố tụng, bị cáo thành khẩn khai báo, nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, có thái độ ăn năn hối cải. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội, người bào chữa, bị cáo không có tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân huyện Gia Lâm và Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về thủ tục tố tụng: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Tòng Văn H và anh Lường Văn N vắng mặt tại phiên tòa nH trước đó đã có lời khai đầy đủ tại Cơ quan điều tra và đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Xét thấy việc vắng mặt của anh H và anh N không gây trở ngại cho việc xét xử. Theo quy định tại khoản 1 Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh H và anh N.

[3] Về hành vi phạm tội và tội danh:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, lời khai của người chứng kiến, biên bản kiểm tra, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 19 giờ ngày 11/03/2020, tại Ngọc Động, Đa Tốn, Gia Lâm, Hà Nội, bị cáo Lò Văn C đã bán 01 gói Heroine giá 100.000 đồng cho Tòng Văn H. Ngoài ra bị cáo Lò Văn C có hành vi cất giữ trái phép 04 gói ma túy loại Heroine, có tổng khối lượng 0,378 gam mục đích để bán kiếm lợi nH chưa kịp bán thì bị cơ quan Công an phát hiện bắt giữ cùng vật chứng. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước đối với các chất ma tuý. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố bị cáo theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo:

[4.1] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội : Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước đối với các chất ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội. Heroine là chất ma tuý rất độc hại, tàn phá và huỷ hoại sức khoẻ con người, là một trong những nguyên nhân chính phát sinh ra các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác trong đời sống xã hội. Trong những năm qua, tội phạm về ma tuý trên địa bàn thành phố Hà Nội diễn biến rất phức tạp, Nhà nước, các cấp chính quyền và Đoàn thể rất quan tâm và nỗ lực tuyên truyền, giáo dục về tác hại của ma tuý, kêu gọi T dân tích cực tham gia phòng chống tệ nạn về ma tuý và tội phạm may tuý. Bị cáo nhận thức được đầy đủ về tác hại của ma tuý nH vẫn tham gia mua bán trái phép nên cần thiết phải xử lý nghiêm minh để giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và phòng ngừa chung; góp phần đấu tranh phòng chống tệ nạn và các tội phạm về ma tuý trong đời sống xã hội.

[4.2] Về nhân thân bị cáo: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. [4.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải. Bị cáo là người dân tộc thiểu số sống trong vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, nhận thức pháp luật còn hạn chế nên có thể áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo. Như vậy, bị cáo có 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4.4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tổng hợp nhận định ở trên, Hội đồng xét xử nhận thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian bằng việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn để đảm bảo việc răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Gia Lâm tại phiên toà là phù hợp.

[4.5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên toà thể hiện: Bị cáo không có việc làm, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Đối với số ma túy thu giữ của bị cáo là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy.

Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền 100.000 đồng thu giữ của Lò Văn C là số tiền do bị cáo bán ma túy mà có.

Hoàn trả Lò Văn C số tiền 1.300.000 đồng; 01 ví da màu nâu và 01 điện thoại OPPO mặt lưng mầu vàng, mặt trước mầu trắng, màn hình cảm ứng, lắp sim số 0859000318 và 0923054311, đã qua sử dụng do không có liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

Tịch thu, tiêu hủy 01 xi lanh kim tiêm đã qua sử dụng thu giữ của Tòng Văn H:

Tịch thu, tiêu hủy 01 xi lanh kim tiêm đã qua sử dụng thu giữ của Lường Văn N:

Hoàn trả Tòng Văn H: 01 ví da màu nâu bên trong có CMND mang tên Tòng Văn H; 01 điện thoại Nokia vỏ mầu đen, hồng, đã qua sử dụng lắp sim 0985703126 do không liên quan đến tội phạm.

Hoàn trả Lường Văn N 01 điện thoại di động Nokia 105 vỏ mầu đen, lắp sim 0867707263, đã qua sử dụng do không liên quan đến tội phạm.

Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm đã xử lý các vật chứng khác theo thẩm quyền, nay không có tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xét.

[6] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[8] Về các nội dung khác:

Đối với đối tượng bán ma túy cho bị cáo Lò Văn C, do không xác định được nhân thân, Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với Tòng Văn H và Lò Văn N là đối tượng nghiện ma túy, khối lượng ma túy Heroine còn dính ở 02 xilanh thu giữ của H và N không đủ để định lượng nên không cấu thành tội phạm. Ngày 01/04/2020, Tòng Văn H và Lường Văn N đã bị Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lò Văn C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

2.1. Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Lò Văn C 02 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 11/03/2020.

2.2. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

3.1. Tịch thu, tiêu huỷ ma túy loại Heroine có khối lượng 0,343 gam (đã trích mẫu 0,035 gam) thu giữ của bị cáo Lò Văn C, đựng trong 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Lò Văn C và Giám định viên, do Phòng PC09-Công an thành phố Hà Nội hoàn lại sau giám định (tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm ngày 09/07/2020).

3.2. Tịch thu, tiêu hủy 01 xi lanh kim tiêm đã qua sử dụng thu giữ của Tòng Văn H (tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm ngày 09/07/2020).

3.3. Tịch thu, tiêu hủy 01 xi lanh kim tiêm đã qua sử dụng thu giữ của Lường Văn N (tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm ngày 09/07/2020).

3.4. Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền 100.000 đồng thu giữ của Lò Văn C (số tiền 100.000 đồng nằm trong số tiền 1.400.000 đồng hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm đang quản lý theo Biên lai thu tiền số AA/2010/0001904 ngày 13/07/2020).

3.5. Hoàn trả Lò Văn C số tiền 1.300.000 đồng; 01 ví da màu nâu và 01 điện thoại OPPO mặt lưng mầu vàng, mặt trước mầu trắng, màn hình cảm ứng, lắp sim số 0859000318 và 0923054311, đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo (số tiền 1.300.000 đồng nằm trong số tiền 1.400.000 đồng hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm đang quản lý theo Biên lai thu tiền số AA/2010/0001904 ngày 13/07/2020 và tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm ngày 09/07/2020).

3.6. Hoàn trả Tòng Văn H: 01 ví da màu nâu bên trong có CMND mang tên Tòng Văn H và 01 điện thoại Nokia vỏ mầu đen hồng, đã qua sử dụng lắp sim 0985703126 (tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm ngày 09/07/2020).

3.7. Hoàn trả Lường Văn N 01 điện thoại di động Nokia 105 vỏ mầu đen, lắp sim 0867707263, đã qua sử dụng (tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm ngày 09/07/2020).

4. Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 và Điều 14 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án kèm theo.

Miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Lò Văn C.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Tòng Văn H và anh Lường Văn N có quyền kháng cáo những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 108/2020/HS-ST ngày 21/07/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:108/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về