Bản án 108/2020/HS-ST ngày 07/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

 BẢN ÁN 108/2020/HS-ST NGÀY 07/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hoà, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:106/2020/TLST-HS ngày 21 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 119/2020/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Đỗ Trí T, tên gọi khác: không có; sinh năm: 1994; Tại thành phố Hồ Chí Minh; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: không có; Trình độ học vấn: 8/12; Hộ khẩu thường trú: 60/5A Dân Thắng 1, xã Tân Thới Nh, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh; Họ và tên cha: Đỗ Văn Hùng; Họ và tên mẹ: Trần Kiều Linh; gia đình có 04 anh em lớn nhất sinh năm 1992, nhỏ nhất sinh năm 1996, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: không; Tiền sự: không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ công an huyện Đức Hòa, tỉnh Long an từ ngày 14/5/2020 đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Lê Hoài Th, sinh năm 1981.

Địa chỉ: ấp Chánh, xã Đức Lập H, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. (Vắng mặt).

2. Ông Dương Văn T, sinh năm 1996 Địa chỉ: ấp Phước Thạnh, xã Vĩnh Phước A, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang (Vắng mặt).

Người làm chứng: Ông Nguyễn Minh Đức, ông Nguyễn Tấn Trường (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đỗ Trí T là người nghiện chất ma túy. Sau khi đã điện thoại hẹn trước với Q nên khoảng 14 giờ ngày 14/5/2020 Tài đi xe buýt đến đoạn ngã tư Hóc Môn, thuộc địa phận huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh gặp người đàn ông tên Q (không rõ lai lịch) hỏi mua ma túy tổng hợp (dạng đá). Người đàn ông này bán cho T 01 túi nylon bên trong chứa chất ma túy tổng hợp (dạng đá) với giá tiền 10.000.000 đồng. Sau đó, T lấy túi nylon chứa ma túy vừa mua được phân chia thành 01 túi nylon nhỏ và 01 túi nylon lớn để dành sử dụng. T cất giấu 02 túi ma túy vào trong túi quần đang mặc rồi đón xe buýt đến nhà anh Lê Hoài Th, ở khu vực ấp Chánh, xã Đức Lập H, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An chơi. Khoảng 15 giờ 30 phút, khi đến nơi T thấy Công an đang tuần tra gần đó nên hoảng sợ vứt túi nylon lớn đựng chất ma túy vào ô cửa kính bể của nhà anh Lê Hoài Th để tẩu tán nhưng bị công an phát hiện quả tang.

Sau đó, Công an kiểm tra trên người T phát hiện thêm 01 túi nylon nhỏ đựng chất ma túy dạng đá trong túi quần đang mặc. Lực lượng Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Đỗ Trí T, thu giữ vật chứng là 02 túi ma túy tổng hợp.

Tang vật thu giữ gồm: 02 gói nylon hàn kín bên trong có chứa tinh thể rắn màu trắng nghi là chất ma túy tổng hợp dạng đá và 01 điện thoại hiệu Masstel màu đen và số sim 0902 923 652.

Ngày 15/5/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Hòa đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 121/QĐ - ĐCSMT yêu cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An giám định chất ma tuý đã thu giữ.

Tại bản Kết luận giám định số 404/2020/KLGĐ ngày 20/5/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An, kết luận “1. Gói 1: Tinh thể màu trắng đựng trong 01 (một) túi nylon có rãnh khép được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng: 17,2409 gam, loại Methamphetamine.

2. Gói 2: Tinh thể màu trắng đựng trong 01 (một) túi nylon có rãnh khép được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng: 1,0213 gam, loại Methamphetamine.”.

Tổng khối lượng ma túy ở hai túi nylon là 18,2622 gam, loại Methamphetamine.

Bản cáo trạng số 114/CT-VKSĐH ngày 19 tháng 8 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hoà, tỉnh Long An truy tố bị cáo Đỗ Trí Tài về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên toà, Kiểm sát viên sau khi phân tích tính chất và mức độ nguy hiểm xã hội của hành vi vi phạm pháp luật mà bị cáo Đỗ Trí T gây ra; đồng thời căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm g khoản 2, Điều 249, điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) tuyên bố bị cáo Đỗ Trí T, phạm tôi “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Đỗ Trí T mức hình phạt từ 06 (sáu) năm đến 07 (bảy) năm tù.

Về xử lý vật chứng: áp dụng Điều 46; Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Đối với 02 (hai) gói niêm phong có chứa chất ma túy loại Methamphetamine sau giám định có khối lượng gói 1: 15,6747 gam; gói 2:

0,7681 gam do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An hoàn lại sau giám định và 01 sim diện thoại số 0902 923 652 đề nghị tịch thu tiêu hủy Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 (một) điện thoại hiệu Masstel màu đen.

Đối với người tên Q có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Đỗ Trí T tại địa phận huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh. Do chỉ có lời khai duy nhất của T, không xác định được nhân thân lai lịch, nên Cơ quan điều tra tiếp tục truy xét làm rõ xử lý sau.

Tại phiên tòa bị cáo Đỗ Trí T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa truy tố, không đưa ra chứng cứ nào minh oan chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đức Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tòa án tống đạt hợp lệ giấy triệu tập tham gia phiên tòa nhưng tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Hoài Th, Dương Văn T những người làm chứng vắng mặt. Xét ông Th, ông T và những người làm chứng vắng mặt đã có lời khai trong quá trình điều tra và họ không có yêu cầu nào khác đối với bị cáo nên việc vắng mặt những người này không gây trở ngại cho việc xét xử. Vì vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt người liên quan, người làm chứng theo quy định tại Điều 292; Điều 293 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Về nội dung:

[3] Hành vi phạm tội: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và những người tham gia tố tụng khác cũng như những tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ là phù hợp. Theo đó xác định vào khoảng 14 giờ ngày 14/5/2020, Đỗ Trí T đi xe buýt đến đoạn ngã tư Hóc Môn, thuộc địa phận huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh gặp một người đàn ông tên Q (không rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua ma túy tổng hợp (dạng đá). Người đàn ông này bán cho T 01 túi nylon bên trong chứa chất ma túy tổng hợp (dạng đá) với giá tiền 10.000.000 đồng. Sau đó, T lấy túi nylon chứa ma túy vừa mua được phân chia thành 01 túi nylon nhỏ và 01 túi nylon lớn để dành sử dụng.

T cất giấu 02 túi ma túy vào trong túi quần đang mặc rồi đón xe buýt đến nhà anh Lê Hoài Th ở khu vực ấp Chánh, xã Đức Lập Hạ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An để chơi. Khoảng 15 giờ 30 phút, khi đến nơi T thấy Công an đang tuần tra gần đó nên hoảng sợ, T vứt túi nylon lớn đựng chất ma túy vào ô cửa kính bể của nhà anh Lê Hoài Th để tẩu tán nhưng bị công an phát hiện quả tang. Sau đó, Công an kiểm tra trên người T phát hiện thêm 01 túi nylon nhỏ đựng chất ma túy dạng đá trong túi quần đang mặc. Lực lượng Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Đỗ Trí T, thu giữ vật chứng là 02 túi ma túy tổng hợp.

Kết quả giám định gói chất ma túy đá T cất giấu nói trên để sử dụng có chứa thành phần Methamphetamine, khối lượng là 18,2622 gam. Như vậy hành vi của bị cáo nêu trên có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015(sửa đổi bổ sung năm 2017) . Bản cáo trạng số 114/CT-VKS- ĐH ngày 19 tháng 8 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa truy tố bị cáo Đỗ Trí T về tội danh và điều khoản nêu trên là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Xét về tính chất, mức độ nghiêm trọng đối với hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy và việc tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì muốn thỏa mãn nhu cầu của bản thân bị cáo vẫn tàng trữ để sử dụng. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội, cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo Đỗ Trí T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Ngoài ra, bị cáo T có thân nhân là liệt sĩ, gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn được UBND xã Tân Thới Nhì, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh xác nhận. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm s khoản 1, khoản 2, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) nên khi áp dụng hình phạt cho bị cáo có xem xét giảm nhẹ một phần.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ ma túy nhằm mục đích để sử dụng, thỏa mãn nhu cầu bản thân, không nhằm mục đích thu lợi bất chính nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng vụ án: Đối với 02 (hai) gói niêm phong có chứa chất ma túy loại Methamphetamine sau giám định có khối lượng gói 1: 15,6747 gam; gói 2: 0,7681 gam do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An hoàn lại sau giám định là loại Nhà nước cấm mua bán, lưu hành và số sim 0902 923 652 không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Điện thoại hiệu Masstel màu đen và bị cáo dùng để liên lạc với Q hỏi mua ma túy nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Tang vật hiện do Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Hòa đang quản lý.

[7] Đối với nguồn gốc ma túy: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo khai mua tại của một người tên Q không rõ lai lịch và địa chỉ. Do đó Cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Hòa không có căn cứ để điều tra, xác minh.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Đỗ Trí T phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Trí T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm g khoản 2, Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Đỗ Trí T 06 (sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giạm ngày 14/5/2020.

Về xử lý vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu và tiêu hủy: 02 (hai) gói niêm phong có chứa chất ma túy loại Methamphetamine sau giám định có khối lượng gói 1: 15,6747 gam; gói 2:0,7681 gam do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An hoàn lại sau giám định. Số sim điện thoại 0902 923 652 Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 (một) điện thoại Masstel màu đen.

Tang vật hiện do Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Hòa đang quản lý.

Căn cứ Điều 135, 136, 333 và Điều 337 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Đỗ Trí T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 108/2020/HS-ST ngày 07/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:108/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về