Bản án 107/2021/HS-PT ngày 26/01/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 107/2021/HS-PT NGÀY 26/01/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Vào ngày 26 tháng 01 năm 2021 tại Trụ  sở Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 105/TLPT-HS ngày 10 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo: Lê Văn T, Nguyễn A T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Do có kháng cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 55/2020/HS-ST ngày 29/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.

Bị cáo kháng cáo:

1. Lê Văn T (tên gọi khác: Q), sinh năm 1950 tại tỉnh Thừa Thiên Huế. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: xã B, huyện A, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Không; dân tộc: Pacô. con ông P (Kôn T) (đã chết) và con bà L (Kăn T) (đã chết); có vợ Hồ Thị V (K) và 03 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 25/3/2019; có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn A T, sinh năm 1956 tại tỉnh Thừa Thiên Huế. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: huyện A, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Cán bộ hưu trí; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Tà ôi. con ông Hồ Văn B (đã chết) và con bà Kăn N (đã chết); có vợ Lê Thị H (chết) và 04 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại; có mặt tại phiên tòa.

2. Những người tham gia tố tụng khác:

- Người bào chữa cho bị cáo Lê Văn T: Bà Trần Thị Hồng M - Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Thừa Thiên Huế; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn A T: Ông Đặng Bá Q - Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Thừa Thiên Huế; có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có 07 bị cáo, người bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồ Văn N là cán bộ Bưu điện huyện A được Lãnh đạo phân công phụ trách chi trả lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội cho người dân và cán bộ hưu trí của 03 xã Hồng T, B và A (Huyện A). Trong khoảng thời gian từ năm 2015, Hồ Văn N cần tiền tiêu xài, sử dụng cá nhân nên đã vay tiền của một số đối tượng ở miền Bắc vào tạm trú tại huyện A (N không rõ họ tên, địa chỉ thật), dẫn đến mắc nợ một số tiền khá lớn không có khả năng thanh toán. Khoảng tháng 6/2016, do không có tiền trả nợ, Hồ Văn N đã nảy sinh ý định gian dối nhằm lừa đảo chiếm đoạt tiền của người dân trên địa bàn huyện A. Quá trình làm việc, N tìm hiểu biết được có một số cán bộ hưu trí đưa Phiếu lĩnh lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội đi cầm cố để vay tiền của một số người dân trên địa bàn rồi hàng tháng dùng chính lương hưu này để trả. N cũng dò hỏi một số người cho vay tiền thì biết được họ sẽ cho vay tiền nhưng phải có Phiếu lĩnh lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội thế chấp cầm cố, hàng tháng phải trả tiền gốc và lãi. Thời gian này, với chức trách nhiệm vụ của mình, hàng năm N đều được cơ quan giao cho quản lý, sử dụng phôi Phiếu lĩnh lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội (chưa ghi các thông tin cá nhân cụ thể, nhưng đã có chữ ký và đóng dấu của Thủ Trưởng đơn vị) của tất cả cán bộ hưu trí và người hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội thuộc 3 xã Hồng T, B và A (Huyện A) nên N đã dùng các phương pháp, thủ đoạn để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền như sau:

N tự mình ghi giả các thông tin cá nhân của một người nào đó (mà N nghĩ ra) vào Phiếu lĩnh lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội gồm 4 mục: Họ và tên, địa chỉ, số phiếu và số tiền được chi trả hàng tháng. Tiếp đó, N tìm các đối tượng là Lê Văn T, Lê Hồng N, Hồ Văn T1 (A Viết T1), Nguyễn A T, Vũ Đình P và Hồ Văn T2 (đều là nhũng người dân ở địa bàn huyện A và trong độ tuổi nghỉ hưu gần giống với thông tin của người có tên N ghi trong Phiếu). N hướng dẫn cho họ cách đóng giả làm người có tên trong Phiếu lĩnh lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội. Ban đầu, N trực tiếp đưa họ đến gặp những người cho vay tiền, nói dối là cần vay tiền để trồng cây, xây nhà.. .và sẽ cầm cố bằng Phiếu lĩnh lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội của mình, hàng tháng sẽ trả tiền gốc và lãi. Mỗi Phiếu vay từ 30 đến 50 triệu đồng, trả hàng tháng từ 04 đến 05 triệu đồng, trả thành 12 tháng (tương đương lãi suất 20% /năm). Để làm tin mỗi người vay tiền đều phải viết giấy vay mượn tiền với người cho vay nên N, T, N, T1, T, P và T2 khi đóng giả làm người đi vay tiền đều phải trực tiếp viết và ký vào mục người vay tiền. Đồng thời, để người cho vay tiền tin tưởng mình (hoặc tin tưởng vào những đối tượng mà N cho đóng giả tới vay tiền) Hồ Văn N đã lấy danh nghĩa là cán bộ chi trả lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội của Bưu điện huyện A để đứng ra ký vào mục người làm chứng trong giấy vay mượn tiền, nhằm đảm bảo cho việc trả tiền gốc và lãi hàng tháng của người vay. Mặt khác, N còn thỏa thuận mình sẽ là người đứng ra trả tiền gốc và lãi vay hàng tháng theo giấy vay tiền cho các chủ nợ đúng hạn, những người đi vay tiền không phải là người trả. Hàng tháng N thực hiện trả nợ đầy đủ như đã hẹn vì thế, những người cho vay tiền đều tin là thật, không nghi ngờ gì. Sau đó, mỗi khi cần tiền N chỉ cần điện thoại cho người cho vay tiền nói rằng có cán bộ hưu trí hoặc người hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội cần thế chấp Phiếu vay tiền, N sẽ là người trực tiếp trả tiên gốc và lãi hàng tháng cho chủ nợ. Do tin tưởng N nên các đối tượng N cử đến giả vờ vay tiền (hoặc các đối tượng T, N, T1, T, P và T2 nhờ đóng vai) đều được người cho vay đáp ứng đúng như ý đồ của N. Sau khi chiếm đoạt được tiền đưa về cho N thì T, N, T1, T, P, T2 (hoặc các đối tượng được T, T, P, T2 nhờ) sẽ được N trả công ít nhất là 500.000 đ và nhiều nhất là 3.000.000 đồng/lần, bình thường N trả 1.000.000 đồng/lần hoặc 2.000.000 đồng/lần. Ngoài ra, các đối tượng được T, Nối, T1, T, P, T2 thuê đóng vai sẽ tự thỏa thuận chia nhau số tiền N trả công cho trước đó (Ví dụ: N trả cho T 2.000.000đồng/lần, T phải trả cho người T thuê đóng vai người vay tiền là 500.000đồng hoặc 1.000.000 đồng/lần). Toàn bộ số tiền chiếm đoạt được Hồ Văn N sử dụng để trả tiền lãi hàng tháng cho người bị hại đầy đủ theo thỏa thuận nên không ai phát hiện ra, mà còn tiếp tục cho N (hoặc đồng bọn) vay mượn như cũ. Ngoài ra, N dùng tiền này để trả nợ cho một số người vay mượn trước đó, còn lại N sử dụng tiêu xài cá nhân hết đến nay không thu hồi được. Lê Văn T, Lê Hồng N, Hồ Văn T1, Nguyễn A T, Vũ Đình P, Lê Văn T3, Hồ Văn L và Hồ Văn T2 cũng sử dụng số tiền N (hoặc đồng bọn) chia cho tiêu xài cá nhân hết nên không thu hồi được để trả lại cho những người bị hại.

Hồ Văn N còn tìm cách đối phó với cơ quan Bưu điện huyện A để không bị phát hiện đối với số Phiếu lĩnh lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội đã sử dụng để đi lừa đảo bằng cách: Khi trả tiền hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội cho mọi người trên địa bàn 3 xã Hồng T, B và A (huyện A) N lập một bảng kê chi tiết họ, tên, tuổi, địa chỉ, số tiền sẽ nhận, số tiền đã nhận. Sau đó, hàng tháng, hàng năm N đều chi trả đầy đủ cho mọi người mà không hề bớt xén hoặc chiếm đoạt tiền của họ. Tất cả mọi người đều ký xác nhận đầy đủ trong danh sách rồi N đưa về nộp cho cơ quan quyết toán đúng thời hạn. Mỗi khi hết năm cũ sang năm mới N chỉ phát Phiếu cho những ai có yêu cầu lấy Phiếu, cũng không cần phải thu hồi lại số Phiếu cũ hết hạn do cơ quan không yêu cầu. Những người không lấy Phiếu mới cũng không cần hỏi bởi hàng tháng đều được N chi trả tiền đầy đủ, không có ai khiếu nại gì. Vì vậy, hàng năm N đều có một lượng lớn số Phiếu dư ra để sử dụng đi lừa đảo mà cơ quan không thể phát hiện được.

- Thứ nhất: Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của N và đồng phạm:

Bằng nhiều thủ đoạn gian dối nêu trên, từ tháng 6/2016 đến tháng 7/2018, Hồ Văn N đã sử dụng 225 Phiếu lĩnh lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội thật, nhưng điền thông tin giả vào rồi cùng với Lê Văn T, Lê Hồng N, Hồ Văn T1, Nguyễn A T, Vũ Đình P, Lê Văn T3, Hồ Văn L và Hồ Văn T2 nói dối người cho vay tiền để lừa đảo, chiếm đoạt tiền của các chị: Đoàn Thị Kim A, Nguyễn Thị T4, Lê Thị H, Lê Thị V và Lê Thị P, cụ thể như sau:

1. Chị Đoàn Thị Kim A: Từ ngày 06/5/2017 đến ngày 05/7/2018, Hồ Văn N cùng với Lê Văn T, Lê Hông N, Nguyễn A T, Hồ Văn T1 và một số đồng bọn khác (chưa xác định được họ tên thật, địa chỉ) sử dụng 184 Phôi Phiếu lĩnh lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội, điền thông tin giả để chiếm đoạt của chị Đoàn Thị Kim A số tiền là 9.120.000.000 đồng. Trong đó, N thực hiện 184 lần chiếm đoạt 9.120.000.000 đồng, được chia 8.589.000.000 đồng. T 165 lần, chiếm đoạt 8.250.000.000 đồng, được chia 289.000.000 đồng. N 47 lần chiếm đoạt 2.050.000.000 đồng, được chia 42.000.000 đồng. T1 2 lần chiếm đoạt 90.000.000 đồng, được chia 1.500.000 đồng. T 01 lần chiếm đoạt 40.000.000 đồng, được chia 1.500.000 đồng. 181 đối tượng khác (không rõ họ tên, địa chỉ) được chia 200.000.000 đồng (số tiền này không thu hồi được).

Hồ Văn N đã trả lại cho chị Đoàn Thị Kim A được 3370.000.000 đồng, Nguyễn A T tự nguyện bồi thường cho chị A 2.400.000 đồng, Hồ Văn T1 tự nguyện bồi thường 4.000.000 đồng. Còn lại số tiền 5.743.600.000 đồng, chị A yêu cầu bồi thường đầy đủ, N, T, N chưa bồi thường, số tiền 200.000.000 đồng mà 181 đối tượng (không rõ họ tên, địa chỉ) chiếm đoạt cũng không thu hồi được.

Ngày 17/7/2018 và 20/7/2018, cơ quan điều tra Công an tỉnh Thừa Thiên Huế đã thu giữ của chị Đoàn Thị Kim A gồm: 01 sổ quỹ tiền mặt (bản phô tô) đánh số từ 01 đến 8; 01 tập giấy ủy quyền sổ lương và vay mượn tiền (bản phô tô) đánh số từ 01 đến 198 (không có số 125); 01 tập Phiếu lĩnh lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội (bản phô tô) đánh số từ 01 đến 191; 01 sổ quỹ tiền mặt màu hồng (bản gốc) đánh số từ 01 đến 8;01 sổ bìa màu xanh (bản gốc) có nội dung giấy ủy quyền đánh số từ 01 đến 42; 01 sổ bìa màu vàng (bản gốc) có chữ Q3 nội dung giấy ủy quyền đánh số từ 43 đến 141; 01 sổ bìa màu xanh (Bản gốc) có chữ Q3 nội dung giấy ủy quyền đánh số từ 142 đến 192; 01 sổ bìa màu xanh (bản gốc) có chữ Q4 nội dung giấy ủy quyền đánh số từ 193 đến 196; 191 Phiếu lĩnh lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội (bản gốc).

2.Chị Nguyễn Thị T4: Từ ngày 08/10/2017 đến ngày 11/6/2018, Hồ Văn N, Lê Văn T, Hồ Văn T2 và 11 đối tượng khác (chưa xác định được họ tên thật, địa chỉ), sử dụng 11 Phôi Phiếu lĩnh lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội giả vờ vay tiền để chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị T4 12 lần với số tiền là 560.000.000 đồng. Trong đó, N thực hiện 12 lần, chiếm đoạt 560.000.000 đồng, được chia 526.000.000 đồng. T thực hiện 08 lần, chiếm đoạt 420.000.000 đồng, được chia 18.000.000 đồng. T2 thực hiện 01 lần, chiếm đoạt 40.000.000 đồng, được chia 1.000.000 đồng. 11 đối tượng khác được chia 16.000.000 đồng.

N đã trả lại cho chị Nguyễn Thị T4 120 triệu đồng, còn lại 440 triệu đồng chị T4 yêu cầu bồi thường đầy đủ. Hồ Văn N, Lê Văn T, Hồ Vãn T2 chưa bồi thường, số tiền 16.000.000 đồng mà 11 đối tượng (chưa xác định được họ tên thật, địa chỉ) chiếm đoạt cũng không thu hồi được.

Ngày 27/7/2018, cơ quan điều tra Công an tỉnh Thừa Thiên Huế đã thu giữ của chị Nguyễn Thị T4 gồm: 01 tập giấy cho vay tiền gồm 12 bản được đánh số thứ tự từ 01 đến 12; 01 tờ giấy danh sách những người cô T4 cho vay tiền và người làm chứng; 11 Phiếu lĩnh lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội, có đóng dấu của Bưu điện huyện A.

3. Chị Lê Thị H: Từ ngày 11/9/2017 đến ngày 07/6/2018, Hồ Văn N, Lê Văn T, Lê Hồng N, Hồ Văn T1, Nguyễn A T và 17 đối tượng khác (chưa xác định được họ tên thật, địa chỉ) sử dụng 20 Phiếu lĩnh lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội, ghi thông tin giả để lừa đảo chiếm đoạt của chị Lê Thị H số tiền là 950.000.000 đồng. Trong đó, N thực hiện 20 lần, chiếm đoạt 950.000.000 đồng, được chia 901.000.000 đồng. T thực hiện 10 lần, chiếm đoạt 480.000.000 đồng, được chia 20.000.000 đồng. N thực hiện 01 lần, chiếm đoạt 40.000.000 đồng, được chia 2.000.000 đồng. T thực hiện 01 lần, chiếm đoạt 50.000.000 đồng, được chia 2.000.000 đồng. T1 thực hiện 01 lần, chiếm đoạt 50.000.000 đồng, được chia 1.000.000 đồng. 17 đối tượng (chưa xác định được họ tên thật, địa chỉ) thực hiện 17 lần, được chia 24.000.000 đồng (hiện nay không thu hồi được). N đã trả lại cho chị H 324.000.000 đồng, Nguyễn A T tự nguyện bồi thường 5.200.000 đồng, Hồ Văn T1 tự nguyện bồi thường 8.000.000 đồng và Trần Thị T5 (là vợ Hồ Văn N) tự nguyện bồi thường 40.000.000 đồng, còn lại số tiền 572.800.000 đồng chị H yếu cầu phải bồi thường đầy đủ. N, T và N chưa bồi thường.

Ngày 01/8/2018, cơ quan điều tra Công an tỉnh Thừa Thiên Huế đã thu giữ của chị Lê Thị H gồm: 20 Phiếu lĩnh lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội, có đóng dấu của Bưu điện huyện A; 11 giấy vay tiền; 01 quyển sổ cho vay sổ lương 2018 gồm 9 tờ.

4. Chị Lê Thị V: Trong 2 ngày 10/12/2017 và 08/5/2018, Hồ Văn N, Lê Văn T, Lê Hồng N và 01 đối tượng (chưa xác định được họ tên thật, địa chỉ) sử dụng 02 Phiếu lĩnh lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội, ghi thông tin giả để lừa đảo chiếm đoạt của chị Lê Thị V số tiền 90.000.000 đồng. Trong đó, N thực hiện 02 lần, chiếm đoạt 90.000.000 đồng. T thực hiện 01 lần, chiếm đoạt 40.000.000 đồng, được chia 2.000.000 đồng. N thực hiện 01 lần, chiếm đoạt 50.000.000 đồng, được chia 2.000.000 đồng. Đối tượng chưa rõ họ tên, địa chỉ thực hiện 01 lần, chiếm đoạt 40.000.000 đồng, được chia 1.000.000 đồng. N đã trả lại cho chị V được 25.000.000 đồng, còn lại 65.000.000 đồng chị V yêu cầu được bồi thường đầy đủ. N, T, N chưa bồi thường.

Ngày 01/8/2018, cơ quan điều tra Công an tỉnh Thừa Thiên Huế đã thu giữ của chị Lê Thị V gồm: 02 Phiếu lĩnh lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội; 02 giấy cho vay tiền.

5. Chị Lê Thị P: Từ ngày 06/l1/2016 đến ngày 26/6/2018, Hồ Văn N, Lê Văn T, Lê Hồng N, Hồ Văn T1, Nguyễn A T, Vũ Đình P, Lê Văn T3, Hồ Văn L và Hồ Văn T2 sử dụng 08 Phiếu lĩnh lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội, ghi thông tin giả để lừa đảo chiếm đoạt của chị Lê Thị P số tiền là 350 triệu đồng. Trong đó, N thực hiện 08 lần, chiếm đoạt 350.000.000 đồng, được chia 334.000.000 đồng. T thực hiện 04 lần, chiếm đoạt 180.000.000 đồng, được chia 8.000.000 đồng. N thực hiện 01 lần, chiếm đoạt 40.000.000 đồng, được chia 2.000.000 đồng. T1 thực hiện 01 lần, chiếm đoạt 40.000.000 đồng, được chĩa 500.000 đồng. T thực hiện 01 lần, chiếm đoạt 50.000.000 đồng, được chia 2.000.000 đồng. P thực hiện 01 lần, chiếm đoạt 50.000.000 đồng, được chia 500.000 đồng. T3 thực hiện 01 lần, chiếm đoạt 50.000.000 đồng, được chia 1.000.000 đồng. L thực hiện 01 lần, chiếm đoạt 50.000.000 đồng, được chia 1.000.000 đồng và T2 thực hiện 01 lần, chiếm đoạt 30.000.000 đồng, được chia 1.000.000 đồng.

N đã trả lại cho chị P 198.480.000 đồng, Nguyễn A T tự nguyện bồi thường 6.000.000 đồng, Hồ Văn T1 tự nguyện bồi thường 9.000.000đ, Hồ Văn T2 tự nguyện bồi thường 2.000.000 đồng, Hồ Văn L tự nguyện bồi thường 20.000.000 đồng và Vũ Đình P tự nguyện bồi thường 7.640.000 đồng. Còn lại 106.880.000 đồng chị P yêu cầu Hồ Văn N phải bồi thường đầy đủ, N chưa bồi thường.

Ngày 01/8/2018, cơ quan điều tra Công an tỉnh Thừa Thiên Huế đã thu giữ của chị Lê Thị P gồm: 08 Phiếu lĩnh lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội; 08 giấy cho vay tiền.

Tổng cộng, từ ngày 06/11/2016 đến ngày 26/6/2018, Hồ Văn N, Lê Văn T, Lê Hồng N, Hồ Văn T1, Nguyễn A T, Vũ Đình P, Lê Văn T3, Hồ Văn L và Hồ Văn T2 đã chiếm đoạt của các chị: Đoàn Thị Kim A số tiền là 9.120.000.000 đồng, chị Nguyễn Thị T4 560.000.000 đồng, chị Lê Thị H 950.000.000 đồng, chị Lê Thị V 90.000.000 đồng, chị Lê Thị P 350 triệu đồng. Tổng cộng là 11.070.000.000 đồng. Trong đó:

Hồ Văn N sử dụng 225 Phiếu (223 Phiếu gốc và 2 Phiếu phô tô lại) thực hiện 226 lần gian dối, chiếm đoạt số tiền 11.070.000.000 đồng, giữ lại cho mình 10.435.000.000 đồng, đã trả lại bị hại 4.037.480.000 đồng, chia cho Lê Văn T 337.000.000 đồng, Lê Hồng N 48.000.000 đồng, Hồ Văn T1 (A Viết T1) 2.000.000 đồng, Nguyễn A T 5.500.000 đồng, Hồ Văn T2 2.000.000 đồng, Vũ Đình P 500.000 đồng, trả cho 25 đối tượng khác đến nay không xác định được là 54.000.000 đồng. Trong tháng, 5 và 6 năm 2018, N đã trả cho bà Nguyễn Thị Phước (sinh năm 1958, trú tại Tổ 3, tổ dân phố 1, thị trấn A, huyên A) 1.300.000.000 đồng. Trả tiền vay gốc và lãi cho một số người khác (hiện nay N không biết rõ họ tên, địa chỉ) mà N vay tiền từ năm 2015 đến năm 2018. Ngoài ra, Hồ Văn N đã dùng số tiền này để làm ăn bị thua lỗ khoảng 5 tỷ đồng, còn lại N tiêu xài cá nhân hết. Do đó, toàn bộ số tiền N chiếm đoạt hiện nay không thu hồi được.

Trần Thị T5 (là vợ Hồ Văn N) tự nguyện bồi thường thay N 40.000.000 đồng, chị T5 không yêu cầu N trả lại số tiền này.

Lê Văn T thực hiện 188 lần, giúp N chiếm đoạt số tiền 9.370.000.000 đồng, được chia 337.000.000 đồng, T chia cho Lê Hồng N 44.000.000 đồng, đưa cho những đối tượng N thuê dẫn đi vay tiền là 47.000.000 đồng, đưa cho Hồ Văn T1 1.000.000 đồng, đưa cho Lê Văn T3: 1.000.000 đồng, đưa cho Hồ Văn L 1.000.000 đồng, đưa cho những đối tượng T thuê (nhưng không quen biết) là:

134.000.000 đồng. Thuê xe ôm chở những người đi vay tiền là 3.000.000 đồng, số tiền còn lại T tiêu xài cá nhân hết, chưa bồi thường cho những người bị hại.

Lê Hồng N thực hiện 50 lần, giúp N chiếm đoạt số tiền 2.180.000.000 đồng, được chia 48.000.000 đồng, sử dụng tiêu xài cá nhân hết, chưa bồi thường cho những người bị hại.

Nguyễn A T thực hiện 03 lần, giúp N chiếm đoạt số tiền 140.000.000 đồng, được chia 5.500.000 đồng, đã bồi thường đầy đủ.

Hồ Văn T1 thực hiện 04 lần, giúp N chiếm đoạt số tiền 18.000.000 đồng, được chia 3.000.000 đồng, đã bồi thường đầy đủ cho 3 người 21.000.000 đồng.

Hồ Văn T2 thực hiện 02 lần, giúp N chiếm đoạt số tiền 70.000.000 đồng, được chia 2.000.000 đồng, đã bồi thường cho chị P 2.000.000 đồng, còn lại 1.000.000 đồng của chị Nguyễn Thị T4 chưa bồi thường (BL 519-538).

Lê Văn T3 thực hiện 01 lần, giúp N chiếm đoạt số tiền 50.000.000 đồng, được chia 1.000.000 đồng, chưa bồi thường cho chị Lê Thị P (BL 539-549).

Hồ Văn L thực hiện 01 lần, giúp N chiếm đoạt số tiền 50.000.000 đồng, được chia 1.000.000 đồng, đã bồi thường 20.000.000 đồng (BL 550-562).

Vũ Đình P thực hiện 01 lần, giúp N chiếm đoạt số tiền 50.000.000 đồng, được chia 500.000 đồng, đã tự nguyện bồi thường 7.640.000 đồng (BL 563- 580).

Các đối tượng khác được thuê giúp N và đồng phạm chiếm đoạt tài sản hiện nay chưa xác định được họ tên thật, địa chỉ nên không có cơ sở thu hồi tài sản để trả lại cho người bị hại.

- Thứ hai: Hành vi làm giả tài liệu và sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức của Hồ Văn N và đồng phạm:

Ngày 22/7/2019, 02/8/2018 và 21/10/2019, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thừa Thiên Huế đã ra các Quyết định trưng cầu giám định số 31,31,33, 57, 58, 59, 60, 61, 62, 63, 64, 65, 66, 67, 68 và số 91, yêu cầu giám định 225 Phiếu lĩnh lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội là giả hay thật, ai là người viết ra và ký ra trên Phiếu. Theo các Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thừa Thiên Huế xác định: Có 223 phiếu gốc, 02 phiếu là bản phô tô nên không giám định được, chữ viết và chữ ký trên 221 phiếu là của Hồ Văn N, có 02 phiếu là do N đưa phiếu chưa có thông tin cho chị Đoàn Thị Kim A viết lại thông tin người vay trên Phiếu khi phần theo dõi trên các ô trong Phiếu cũ đã hết nên thay Phiếu mới.

Trong các ngày 02/8/2018, 21/2/2019, 13/3/2019, 06/5/2019, 11/7/2019, 23/8/2019, 14/10/2019 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thừa Thiên Huế đã ra các Quyết định trưng cầu giám định số 31, 32, 33, 24, 25, 26, 27, 28, 30, 31, 32, 33, 41, 42, 43, 44, 53, 54, 78, 88 và số 89 yêu cầu giám định các chữ viết và chữ ký của Lê Văn T, Lê Hồng N, Hồ Văn T1, Nguyễn A T, Vũ Đình P, Hồ Văn L, Lê Văn T3 và Hồ Văn T2 trong các giấy vay tiền đã thu giữ. Theo các bản Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thừa Thiên Huế xác định:

Lê Văn T có ký hoặc viết trong giấy vay phần người làm chứng 135 giấy, phần người vay 4 giấy.

Lê Hồng N có ký hoặc viết trong giấy vay phần người làm chứng 47 giấy, phần người vay 03 giấy.

Hồ Văn T1 có ký hoặc viết trong giấy vay phần người vay 04 giấy. Nguyễn A T có ký hoặc viết trong giấy vay phần người vay 03 giấy. Hồ Văn T2 có ký hoặc viết trong giấy vay phần người vay 02 giấy.

Vũ Đình P có ký hoặc viết trong giãy vay phần người vay 01 giấy. Lê Văn T3 có ký hoặc viết trong giấy vay phần người vay 01 giấy. Hồ Văn L có ký hoặc viết trong giấy vay phần người vay 01 giấy.

Như vậy, để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Hồ Văn N đã điền thông tin vào 221 Phiếu theo dõi lĩnh lương hưu và trợ cấp Bảo hiểm xã hội do Bưu điện A phát hành, tuy nhiên có 02 Phiếu là mẫu cũ của Bảo hiểm xã Hội huyện A cũng do N viết ra khi cấp cho T và T2 năm 2015 (là phiếu thật nhưng không còn giá trị), Phiếu này N thu hồi khi cấp đổi phiếu mới theo mẫu của Bưu Điện A nhưng N đã đưa T đi cầm cố cho chị Kim A ngày 13/11/2017 để chiếm đoạt 40.000.000đồng và T2 cầm cố cho chị P ngày 06/11/2016 chiếm đoạt 30.000.000đồng. Còn lại 219 Phiếu N đã làm giả, điền các thông tin không đúng sự thật để đưa cho các đối tượng thực hiện hành vi lừa đào chiếm đoạt tài sản.

Sau khi điền các thông tin giả vào Phiếu, N đã gặp gỡ các đối tượng nhờ đóng giả là người có tên trong Phiếu đến gặp những người bị hại cầm cố Phiếu để vay tiền và trả tiền công cho họ. Khi gặp nhũng đối tượng này T2 nói dối là những người có tên trong Phiếu bận đi làm, đi rẫy nên nhờ mang đi cầm giúp, T2 là người đứng ra bảo lãnh và trả nợ hàng tháng, nên một số bị can trong vụ án không biết Phiếu đó là giả bao gồm Hồ Văn T2, Vũ Đình P, Lê Văn T3, Hồ Văn L. Đối với Lê Văn T, Lê Hồng N, Nguyễn A T và Hồ Văn T1 có một số lần biết rõ là giả nhưng vẫn mang đi cầm cố gồm:

Lê Văn T ngày 07/12/2017, đã sử dụng 01 Phiếu mang tên Lê Văn T đến cầm cố cho chị P lấy 40.000.000đồng, sau đó tiếp tục dẫn N mang theo phiếu có tên Lê Hồng N đến cầm cố cho chị P lấy 40.000.000đồng. T biết rõ cả hai Phiếu đều là giả vì cả T và N đều không có chế độ lương hưu hay bảo hiểm xã hội.

Lê Hồng N ngày 07/12/2017, đã sử dụng 01 Phiếu mang tên mình đến cầm cố cho chị P chiếm đoạt 40.000.000đồng, N biết rõ là giả vì N không phải là đối tượng được hưởng chế độ hưu hay bảo hiểm xã hội.

Hồ Văn T1 trong tháng 7/2017 đã sử dụng 02 Phiếu mang tên mình (A Viết T1) để cầm cố chiếm đoạt của chị H 50.000.000đồng và của chị P 40.000.000đồng. T1 biết rõ 02 phiếu này là giả vì bản thân đang giữ Phiếu của mình, số tiền thực tế được nhận cũng thấp hơn số tiền ghi trên 02 phiếu đó.

Nguyễn A T ngày 11/9/2017 đã sử dụng 01 Phiếu mang tên Nguyễn A T nhưng số sổ bảo hiểm khác với số thật của T, T biết là giả nhưng vẫn đem cầm cố cho chị H lấy 50.000.00đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 55/2020/HS-ST ngày 29/9/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã quyết định:

1.Tuyên bố:

Bị cáo Hồ Văn N phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức;

Bị cáo Lê Văn T, Lê Hồng N, Hồ Văn T1, Nguyễn A T phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức; bị cáo Hồ Văn T2, Lê Văn T3, Hồ Văn L, Vũ Đình P phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

2.Tuyên xử:

2.1.Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s, x khoản 1, 2 Điều 51; điểm b, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Văn T 12 năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 341; điểm s, x khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Văn T 02 năm tù về tội Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức.

Áp dụng Điều 55 Bộ luật Hình sự buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 14 (mười bốn) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt tạm giam 01/11/2018.

2.2. Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174; điểm b, s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn A T 01 năm 06 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn A T 01 năm tù về tội Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức.

Áp dụng Điều 55 Bộ luật Hình sự buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 02 năm 06 tháng tù. Thời gian chấp hành bản án tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Ngoài ra Bản án còn tuyên quyết định phần hình phạt đối với các bị cáo khác và về trách nhiệm dân sự, án phí, xử lý vật chứng và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 09/10/2020, bị cáo Lê Văn T làm đơn kháng cáo với nội dung: Xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 06/10/2020, bị cáo Nguyễn A T làm đơn kháng cáo với nội dung: Xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Các bị cáo Lê Văn T và Nguyễn A T vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo và xin giảm nhẹ hình phạt.

Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu ý kiến: Về tố tụng: Trong quá trình tố tụng tại Tòa án cấp phúc thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; bị cáo và những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ khi tham gia tố tụng. Về nội dung: Trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa đã có đủ cơ sở kết luận Tòa án cấp sơ thẩm quy kết bị cáo Lê Văn T và Nguyễn A T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo Điều 174 và Điều 341 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, mức án đã tuyên là đúng pháp luật. Các bị cáo kháng cáo nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới nên đề nghị HĐXX không có cơ sở chấp nhận.

Người bào chữa cho bị cáo Lê Văn T có ý kiến mức án Tòa cấp sơ thẩm tuyên phạt bị cáo là quá nghiêm khắc. Bởi lẽ bị cáo T sinh năm 1950 đến nay là đã trên 70 tuổi, nên được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ mới tại điểm o khoản 1 Điều 51; bị cáo hiện đang điều trị nhiều bệnh tật; gia đình có công với nước được tặng thưởng nhiều bằng khen; do vậy đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo T. Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn A T có ý kiến mức án Tòa cấp sơ thẩm tuyên phạt bị cáo là quá cao; gia đình bị cáo T có công với Cách mạng nên đề nghị HĐXX giảm nhẹ cho bị cáo mộ phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa hôm nay mặc dù các bị cáo có thái độ không hợp tác thể hiện ở hành vi không nghe, không nói. Tuy nhiên căn cứ vào hồ sơ vụ án và lời khai nhận của các bị cáo tại hồ sơ và phiên tòa sơ thẩm là phù hợp với lời khai của những người bị hại, người liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử nên đã có đủ căn cứ xác định: Trong thời gian từ tháng 6 năm 2016 đến tháng 7 năm 2018, mặc dù bản thân không có nhu cầu vay tiền để sử dụng nhưng các bị cáo đã đồng thuận theo hành vi của bị cáo Hồ Văn N là dùng các “Phiếu lĩnh lương hưu hằng tháng”giả để thế chấp vay tiền của nhiều người khác và chiếm đoạt tiêu xài cá nhân. Để thực hiện trót lọt hành vi phạm tội các bị cáo đã đưa ra nhiều thông tin gian dối như hàng trăm phiếu giả, hàng chục người không phải tên trong phiếu, nhưng cho là thật để làm cho những người có nhu cầu cho vay tin tưởng mà giao cho các bị cáo những khoản tiền rất lớn với tổng số tiền 11.070.000.000đ. Sau khi nhận số tiền trên, đến thời hạn các bị cáo không hoàn trả lại mà chiếm đoạt toàn bộ số tiền này để sử dụng vào mục đích cá nhân. Trong đó bị cáo T tham gia 188 lần, giúp sức cho bị cáo N chiếm đoạt 9.370.000.000đ và được chia 337.000.000đ; bị cáo T tham gia 03 lần, giúp sức cho bị cáo N chiếm đoạt 140.000.000đ và được chia 5.500.000đ.

[2] Với hành vi và hậu quả nêu trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 55/2020/HS-ST ngày 29/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã quy kết bị cáo Lê Văn T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 (chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 500.000.000đ trở lên có khung hình phạt tù từ 12 đến 20 năm hoặc tù chung thân), phạt bị cáo 12 năm tù và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo điểm d khoản 2 Điều 341 Bộ luật hình sự năm 2015 (sử dụng con dấu, tài liệu...phạm tội nghiêm trọng có khung hình phạt tù từ 02 năm đến 05 năm), phạt bị cáo 02 năm tù; tổng hợp là 14 năm tù; đồng thời buộc bị cáo phải bồi thường toàn bộ số tiền đã chiếm đoạt cho những người bị hại là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Bị cáo Nguyễn A T bị cấp sơ thẩm kết tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 (chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50.000.000đ đến dưới 200.000.000đ có khung hình phạt tù từ 02 đến 07 năm tù), phạt bị cáo 01 năm 06 tháng tù và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo điểm d khoản 2 Điều 341 Bộ luật hình sự năm 2015 (sử dụng con dấu, tài liệu...phạm tội nghiêm trọng có khung hình phạt tù từ 02 năm đến 05 năm), phạt bị cáo 01 năm tù; tổng hợp là 02 năm 06 tháng tù là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Xét kháng cáo của bị cáo Lê Văn T xin giảm nhẹ hình phạt, HĐXX thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét tất cả các tình tiết giảm nhẹ như khắc phục hậu quả; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình có công với nước; người dân tộc thiểu số, có hoàn cảnh khó khăn theo các điểm b, s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51; đồng thời với tình tiết tăng nặng là phạm tội nhiều lần (188 lần) theo điểm g khoản 2 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo mức thấp nhất của khung hình phạt là 12 năm tù và 02 năm tù là thỏa đáng. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới, nên không có cơ sở để HĐXX xem xét giảm nhẹ như ý kiến của đại diện Viện kiểm sát. Đối với tranh luận của người bào chữa cho bị cáo cho rằng đến nay cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ người phạm tội đủ 70 trở lên theo điểm o khoản 1 Điều 51 BLHS là không đúng quy định, vì tình tiết này chỉ áp dụng khi thực hiện hành vi phạm tội chứ không áp dụng cho thời điểm xét xử.

[5] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn A T xin giảm nhẹ hình phạt, HĐXX thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét tất cả các tình tiết giảm nhẹ như khắc phục hậu quả; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình có công với nước; người dân tộc thiểu số, có hoàn cảnh khó khăn theo các điểm b,s,x khoản 1, khoản 2 Điều 51; đồng thời với tình tiết tăng nặng là phạm tội nhiều lần (03 lần) theo điểm g khoản 2 Điều 52 và Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt và tổng hợp là 02 năm 06 tháng tù là thỏa đáng. Xét thấy tất cả các tình tiết giảm nhẹ mà người bào chữa nêu ra tại phiên tòa hôm nay đã được cấp sơ thẩm xem xét, áp dụng; nay bị cáo không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới, nên không có cơ sở để HĐXX xem xét giảm nhẹ như ý kiến tranh luận của người bào chữa; chấp nhận ý kiến của Kiểm sát viên giữ nguyên mức hình phạt án sơ thẩm.

[6] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[7] Về án phí: Căn cứ Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

1/Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lê Văn T và Nguyễn A T về việc đề nghị giảm nhẹ hình phạt; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 55/2020/HS-ST ngày 29/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.

Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn T và Nguyễn A T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”; Tuyên xử:

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s, x khoản 1, 2 Điều 51; điểm b, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Văn T 12 (mười hai) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 341;

điểm s, x khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Văn T 02 (hai) năm tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Áp dụng Điều 55 Bộ luật Hình sự buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 14 (mười bốn) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt tạm giam 25/3/2019.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174; điểm b, s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn A T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn A T 01(một) năm tù về tội” Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Áp dụng Điều 55 Bộ luật Hình sự buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành bản án tính từ ngày bắt giam thi hành án.

2/Về án phí: Các bị cáo Lê Văn T và Nguyễn A T mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

3/Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (26/01/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

423
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 107/2021/HS-PT ngày 26/01/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức

Số hiệu:107/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về