Bản án 107/2018/HS-ST ngày 19/09/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 107/2018/HS-ST NGÀY 19/09/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Phú xét sử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 108/2018/TLST-HS ngày 08 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 130/2018/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo:

Đặng Văn T, sinh ngày: 10/5/1989, tại Nam Định; Thường trú: thị trấn N, huyện L, tỉnh Lâm Đồng; Chỗ ở: Không nơi ở nhất định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam, Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam, con ông Đặng Xuân T và bà Phạm Thị P. Tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 19/4/2018; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Anh Lâm Văn M, sinh năm: 1994 (xin vắng mặt).

Địa chỉ: 158 Đường T, phường T, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Đỗ Công S, sinh năm: 1982 (xin vắng mặt).

Địa chỉ: 137/64 Đường D, phường T, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Khoảng 10 giờ ngày 19/4/2018 Đặng Văn Tđi bộ trên đường Tân Quý hướng ra đường Tân Kỳ Tân Quý để tìm việc làm. Khi đi đến trước nhà số 235 Tân Quý, phường Tân Quý, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh thấy có 02 chiếc xe máy đang dựng trước nhà, đầu xe hướng vào nhà, không có người trông coi. Trên xe máy hiệu Vespa LX biển số 55Y6 – 6947 màu trắng của anh Lâm Văn M không có khóa cổ, chìa khóa còn cắm trong ổ khóa, T nảy sinh ý định lấy trộm xe để bán lấy tiền tiêu xài. T lén lút đi đến xe máy biển số 55Y6 – 6947 rồi dùng hai tay đẩy lùi xe xuống lòng đường, đầu xe hướng ra đường Gò Dầu và dùng tay phải bật công tắc xe định leo lên xe bỏ chạy thì bị quần chúng phát hiện bắt giữ.

Tại Cơ quan điều tra, T thừa nhận hành vi phạm tội của mình như trên. Mục đích lấy trộm xe đem bán lấy tiền tiêu xài.

Tại Kết luận định giá tài sản số 109/KL-HĐĐGTA-TTHS ngày 03/8/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Tân Phú kết luận như sau: 01 (một) xe hai bánh gán máy hiệu Piaggio Vespa LX125, biển số 55Y6 – 6947, màu sơn trắng, số khung RP8M66110AV-000281, số máy M663M-4003746; Tài sản đã qua sử dụng; Tỷ lệ còn lại 55%; Trị giá 18.000.000 đồng.

Vật chứng thu giữ:

+ 01 (một) xe hai bánh gắn máy hiệu Piaggio Vespa LX125, biển số 55Y6 – 6947 cùng một chìa khóa xe (Cơ quan điều tra đã trả xe lại cho bị hại anh Lâm Văn M, anh M đã trả lại xe cho chủ sở hữu là anh Đỗ Công S).

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đỏ đen, số imel 357780069125785.

Tại bản Cáo trạng số 113/Ctr-VKS ngày 03/8/2018 Viện Kiểm sát nhân quận Tân Phú đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân quận Tân Phú để xét xử bị cáo Đặng Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 74 Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ;

Sau khi nghe lời khai nhận tội của bị cáo;

Sau khi nghe ý kiến tranh luận và đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú về mức án đối với bị cáo Đặng Văn T;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Tại phiên tòa hôm nay, qua phần xét hỏi và tranh luận, bị cáo Đặng Văn T thừa nhận ngày 19/4/2018 bị cáo đã thực hiện hành vi trộm cắp 01 chiếc xe gắn máy hiệu Vespa LX125 trị giá 18.000.000 đồng của anh Lâm Văn M.

Như vây, với hành vi lén lút, lợi dụng sơ hở của bị hại, bị cáo đã chiếm đoạt chiếc xe máy hiệu Piaggio Vespa LX125, biển số 55Y6 – 6947 do anh Lâm Văn M quản lý là đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến tài sản công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương, tạo ra một dư luận xấu trong nhân dân. Do đó, cần có mức án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra để giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt và phòng ngừa chung. Tuy nhiên Hội đồng cũng xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình vì bị cáo phạm tội có tình tiết giảm nhẹ.

Tuy nhiên, khi lượng hình Hội đồng xét xử có xem xét bị cáo đã thể hiện việc thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự có cơ sở áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt lẽ ra bị cáo phải chịu.

Tình tiết tăng nặng: không.

Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị cáo chiếm đoạt của anh Lâm Văn M là chiếc xe máy hiệu Piaggio Vespa LX125, biển số 55Y6 – 6947 đã được thu hồi, trả lại cho cho anh M (Theo phiếu trả lời xác minh phương tiện giao thông cơ giới đường bộ ngày 11/5/2018 thì xe trên do anh Trần Thanh T là chủ sở hữu, anh T đã bán lại cho anh Nguyễn Thanh T, sau đó anh T bán lại cho anh Đỗ Công S, hiện anh S đã nhận lại xe từ anh M). Anh M đã nhận lại đầy đủ tài sản và không có yêu cầu gì nên phần dân sự đã giải quyết xong.

Về xử lý vật chứng: Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đỏ đen, số imel 357780069125785 thu giữ của bị cáo T, xét không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo.

Xét đề nghị của Viện Kiểm sát nhân dân quận Tân Phú đề nghị xử phạt bị cáo Đặng Văn T với mức án từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù là có cơ sở chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đặng Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Căn cứ vào Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt bị cáo Đặng Văn T 01 (một) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 19/4/2018.

Về trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, trả lại cho bị cáo Đặng Văn T 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đỏ đen, số imel 357780069125785.

Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

331
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 107/2018/HS-ST ngày 19/09/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:107/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Phú - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về