Bản án 106/2021/HSST ngày 21/05/2021 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Đ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 106/2021/HSST NGÀY 21/05/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 21 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 85/2021/TLST-HS ngày 09 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 101/2021/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Đình T (Tên gọi khác: Tý) sinh năm 1984 tại: Lâm Đồng. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Tổ 15, khu phố 2 (Tự tạo 3, Tự Phước), phường 11, Thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: làm nông; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Đình M, sinh năm 1960 và bà Lê Thị H, sinh năm 1961; có vợ là Phan Thị Trúc L, sinh năm 1988 (đã ly hôn) và 01 người con sinh năm 2011.

Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Ngày 06-6-2008, bị Công an thành phố Đ xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000đ về hành vi xâm phạm sức khỏe người khác Bị bắt tạm giam ngày 03-01-2021. Hiện đang bị tạm giam tại Trại giam Công an tỉnh Lâm Đồng. Có mặt tại phiên tòa -Bị hại: Anh Lâm Tiến L, sinh năm 1984. Nơi cư trú: tổ Đa Phước 1, phường 11, Thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt tại phiên tòa Người làm chứng: bà Bùi Thị Tuyết V, sinh năm 1971. Nơi cư trú: số 342B đường Lương Đình Của, phường 11, Thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ 30 phút, ngày 02-6-2020, Trần Đình T gặp anh Lâm Tiến L tại quán cà phê Vĩnh Hưng ở số 232 Tự Phước, Phường 11, Thành phố Đ. T có đòi anh L số tiền 20.000.000 đồng mà anh L mượn của chị Bùi Thị Tuyết V (Ty), sinh năm: 1971, ngụ tại 342B Lương Đình Của, phường 11, Thành phố Đ. L trả lời “Tao nợ thì từ từ tao trả chứ mày đòi hoài lấy gì tao làm được, tao nợ tiền bà Ty chứ nợ tiền gì mày”, dẫn đến có lời qua tiếng lại chửi nhau. Sau đó, anh L đi đến quán cà phê Su Su ở Tổ 1, Lộc Quý, xã X, Thành phố Đ uống bia. Bực tức vì không đòi được nợ nên T gọi điện cho bạn tên Th (không rõ nhân thân lai lịch) nhờ Th chuẩn bị cho T một con dao để đánh anh L, rồi T điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Nouvo, biển số 49-0543 của T đi đến khu vực chợ rau Phường 11, Thành phố Đ gặp Th, tại đây Th đưa cho T một con dao cán gỗ, màu nâu, dài khoảng 50 cm, lưỡi dao bằng kim loại thì T giao xe cho Th điều khiển chở T đi tìm anh L. Trên đường đi, T gọi điện thoại cho anh L hỏi anh L đang ở đâu, anh L trả lời đang ở dốc số 9”. Đến 17 giờ 30 phút, ngày 02-6-2020, Th chở T đến gần quán cà phê Su Su thì thấy L đang ngồi ở lề đường trước quán cà phê, T xuống xe, một mình đi đến chỗ anh L, tay phải T cầm dao chém một cái từ trên xuống dưới nhằm vào anh L, anh L đứng dậy đưa tay trái lên đỡ thì trúng vào tay trái, anh L đẩy T ra, T tiếp tục cầm dao chém hai đến ba cái theo hướng từ trên xuống về phía anh L, anh L tiếp tục đưa tay trái lên đỡ và quay người bỏ chạy. Thấy anh L bị chảy máu và có nhiều người dân đi ra nên T chạy ra chỗ Th, lên xe bỏ trốn, trên đường đi T đã vứt con dao ở lề đường, còn anh L được đưa đi cấp cứu tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Lâm Đồng.

Tang vật của vụ án:

- 01 con dao cán gỗ, màu nâu, dài khoảng 50 cm, lưỡi dao bằng kim loại, ( không thu giữ được).

- 01 đoạn video clip ghi lại một số hình ảnh T dùng dao chém L. Ngày 10/9/2020, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng có Kết luận giám định số 1423/GĐ-PC09 kết luận:

Không phát hiện dấu vết cắt ghép, chỉnh sửa trong file video clip tên “8754898170471684740”, định dạng:MP4 File, kích thước: 1.464KB, thời lượng 16 giây gửi giám định. Diễn biến hành động của người mặc áo sáng màu dài tay; người mặc áo khoác tối màu dài tay, trên tay phải cầm một vật dạng dao và người đội nón lưỡi trai điều khiển xe mô tô xuất hiện trong file video clip gửi giám định được mô tả như sau:

+ Tại thời điểm “00:00:00:09” hiện thị trong file video clip quan sát thấy ba (03) đối tượng có liên quan đến vụ việc được ký hiệu “1” mặc áo dài tay sáng màu, mặc quần dài tối màu. Đối tượng ký hiệu “2” mặc áo dài tay tối màu và quần dài tối màu đến đầu gối, mặc áo tối màu dài tay, điều khiển xe mô tô và đội nón lưỡi trai tối màu + Tại thời điểm “00:00:00:31” hiển thị trong file video clip, đối tượng “2” tay phải cầm một vật dài sáng màu (dạng dao, lúc này đối tượng “3” điều khiển xe mô tô di chuyển đến giữa lòng đường + Tại thời điểm “00:00:00:40” hiển thị trong file video clip, đối tượng “2” tay phải cầm một vật dài màu sáng (dạng dao) vung về phía đối tượng “1”. Đối tượng “1” dùng tay trái đưa lên ngang mặt. Đối tượng “3” tiếp tục điều khiển xe mô tô di chuyển giữa lòng đường và quan sát diễn biến hành động của hai đối tượng “1” và “2” + Tại thời điểm “00:00:01:36” hiển thị trong file video clip, đối tượng “1” tiếp cận và dùng tay, chân tác động lên đối tượng “2” ở cự ly gần. Đối tượng ký hiệu “4” mặc trang phục tối màu xuất hiện trong file video clip + Tại thời điểm “00:00:04:55” hiển thị trong file video clip, đối tượng “4” di chuyển đến hai đối tượng “1” và “2”. Đối tượng “2” tay phải cầm một vật dài sáng màu chỉ hướng vào đối tượng “1” + Tại thời điểm “00:00:06:15” hiển thị trong file video clip, đối tượng “4” tiếp cận hai đối tượng “1” và “2”. Lúc này đối tượng “3” điều khiển xe mô tô di chuyển đến gần đối tượng “2” + Tại thời điểm “00:00:13:46” hiển thị trong file video clip, đối tượng ký hiệu “5” mặc trang phục tối màu tiếp cận đối tượng “1”. Đối tượng “2” ngồi lên phía sau xe mô tô quay đầu lại dùng tay phải cầm một vật dài sáng màu (dạng dao) chỉ hướng vào nhóm ba người đang đứng bao gồm đối tượng “1”. Sau đó, đối tượng “3” điều khiển xe mô tô chở đối tượng “2” rời khỏi nơi xảy ra vụ việc Đặc điểm của đối tượng “2”: Đầu trọc, mặc áo tối màu dài tay, mặc quần dài tối màu, mang giầy sáng màu. Tay phải cầm một vật dạng dao, tay trái cầm một vật khác không xác định Đặc điểm của đối tượng “3” Mặc quần ngắn tối màu đến đầu gối, mặc áo dài tay tối màu, đội nón lưỡi trai tối màu, mang dép tối màu Đặc điểm của xe mô tô mà đối tượng “3” sử dụng: là loại xe mô tô hai bánh, nhãn hiệu Nouvo LX màu đỏ đen, không xác định được biển kiểm soát.

Sau khi sự việc xảy ra, ngày 03-10-2020, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Đ đã khởi tố vụ án hình sự, đến ngày 30-11-2020 khởi tố bị can đối với Trần Đình T về tội: Cố ý gây thương tích, quy định tại khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự. Do T bỏ trốn nên Cơ quan CSĐT đã ra quyết định truy nã đối với Trần Đình T. Đến ngày 03-01-2021, Trần Đình T bị bắt theo quyết định truy nã số 01 ngày 22-12-2020 của Cơ quan CSĐT Công an thành phố Đ.

Người bị hại: Lâm Tiến L, sinh năm 1984, nơi cư trú: Tổ Đa Phước 1, Phường 11, Thành phố Đ bị đa vết thương phức tạp ở cổ tay trái. Theo bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 149/2020-TgT ngày 14-8-2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Lâm Đồng xác định: thương tích của nạn nhân Lâm Tiến L là 25%, tổn thương do vật sắc gây nên. Anh L yêu cầu bồi thường số tiền 100.000.000 đồng, Trần Đình T đã bồi thường cho anh L số tiền 55.000.000đ, anh L yêu cầu được bồi thường số tiền còn lại.

Tại bản Cáo trạng số 85/Ctr-VKS ngày 07 tháng 4 năm 2021 Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng đã truy tố Trần Đình T về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a Khoản 1, điểm đ Khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Trần Đình T thừa nhận diễn biến vụ việc đúng như bản Cáo trạng và không thắc mắc, khiếu nại gì nội dung bản Cáo trạng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm điểm a khoản 1, điểm đ Khoản 2 Điều 134; điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017). Xử phạt bị cáo Trần Đình T từ 04 đến 05 năm tù. Về trách nhiệm dân sự đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

Bị hại anh Lâm Tiến L xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Lời nói sau cùng: bị cáo Trần Đình T nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật hình sự, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Bị cáo bị cáo Trần Đình T là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo nhận thức rõ sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, nhưng tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận khoảng 17 giờ 30 phút, ngày 02-6-2020, trước khu vực quán Cà phê Su Su tại Tổ 1, thôn Lộc Quý, xã X, Thành phố Đ bị cáo đã dùng một một con dao cán gỗ, màu nâu, dài khoảng 50 cm, lưỡi dao bằng kim loại chém vào tay của anh Lâm Tiến L gây thương tích. Tại Kết luận giám định số 149/2020-TgT ngày 14-8-2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Lâm Đồng xác định: thương tích của nạn nhân Lâm Tiến Lợi là 25%, tổn thương do vật sắc gây nên. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo không thắc mắc, khiếu nại gì đối với kết luận giám định thương tích. Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay, phù hợp với nội dung Cáo trạng, lời khai của người bị hại, người làm chứng nên đủ cở sở kết luận bị cáo phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 (Được sửa đổi, bổ sung năm 2017), do khi gây thương tích bị cáo sử dụng dao là hung khí nguy hiểm và tỷ lệ tổn thương cơ thể cho bị hại anh Lâm Tiến Lợi là 25% (từ 11 đến 30%) nên thuộc trường hợp định khung tăng nặng theo quy định tại điểm đ Khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) [3] Về tình tiết tăng nặng; giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, sau khi phạm tội đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho người bị hại số tiền 55.000.000 đồng, trong giai đoạn xét xử đã tác động gia đình bồi thường thêm cho bị hại số tiền 20.000.000 đồng nhằm khắc phục hậu quả và được người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, do đó cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, s Khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[4] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Tính chất mức độ phạm tội nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ; gây mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo nhận thức rõ việc gây thương tích, tổn hại cho sức khỏe của người khác bị pháp luật nghiêm cấm, nhưng bị cáo cố ý thực hiện. Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự, sau khi cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xử thấy rằng: Mặc dù bị cáo được áp dụng 03 tình tiết giảm nhẹ (Trong đó 02 tình tiết theo quy định tại khoản 1, 01 tình tiết theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự ) nhưng vào năm 2008 bị cáo từng bị Công an Thành phố Đà Lạt xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm phạm sức khỏe người khác, sự việc này phần nào cho thấy bản tính hung hăng, coi thường sức khỏe người khác của bị cáo. Đối với vụ án này, sau khi phạm tội bị cáo bỏ đã bỏ trốn và bị Cơ quan Điều tra truy nã, sau đó bị bắt theo Quyết định truy nã cho thấy bị cáo là người xem thường pháp luật, gây khó khăn, trở ngại cho hoạt động điều tra. Ngoài ra, khi thực hiện hành vi gây thương tích bị cáo không những sử dụng dao chém một nhát mà nhiều nhát vào người bị hại cho thấy sự tích cực, quyết tâm trong việc phạm tội của bị cáo, bên cạnh đó tỷ lệ tổn thương cơ thể mà bị cáo gây ra cho người bị hại với mức 25% là mức cao trong khung hình phạt được áp dụng. Do đó, cần thiết phải xử lý nghiêm đối với bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian đủ dài mới đủ sức răn đe, giáo dục đối riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[5] Đối với đối tượng tên Th là người chuẩn bị dao (công cụ phạm tội), đồng thời là người trực tiếp chở bị cáo Tuyên đi đến hiện trường gây thương tích cho bị hại L, sau đó trực tiếp chở bị cáo T rời khỏi hiện trường. Trong quá trình điều tra Công an thành phố Đà Lạt đã tiến hành xác minh nhưng chưa tìm ra nhân thân lai lịch. Qua xem xét thấy rằng có nhiều cơ sở xác định Th đồng phạm với vai trò người giúp sức cho bị cáo T trong việc thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần Kiến nghị Công an Thành phố Đ bằng các biện pháp nghiệp vụ khẩn trương tiếp tục xác minh, đầu tranh để điều tra làm rõ nhân thân, lai lịch của đối tượng Th nhằm xử lý trách nhiệm hình sự của đối tượng này, tránh bỏ lọt hành vi phạm tội.

[6] Về xử lý vật chứng: 01 con dao cán gỗ, màu nâu, dài khoảng 50 cm, lưỡi dao bằng kim loại; 01 xe mô tô hiệu Yamaha Nouvo, biển số 49-0543 và 01 điện thoại di động T dùng làm phương tiện liên lạc và đi đến chỗ anh L gây thương tích, quá trình điều tra Cơ quan điều tra không thu giữ được nên không có cơ sở để xử lý.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử bị cáo đã bồi thường cho bị hại là anh Lâm Tiến L số tiền thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm là 75.000.000 đồng, nay anh Lâm Tiến L yêu cầu bị cáo bồi thường thêm số tiền 25.000.000 đồng và bị cáo cũng đồng ý tự nguyện bồi thường thêm. Xét việc bị cáo đồng ý tự nguyện bồi thường thêm số tiền 25.000.000 đồng là không trái pháp luật nên cần ghi nhận trong phần quyết định của bản án.

[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội phạm và hình phạt:

Áp dụng điểm đ, Khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (Được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tuyên bố bị cáo Trần Đình T phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Xử phạt bị cáo Trần Đình T 04 (Bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 03-01-2021.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Áp dụng Điều 590 Bộ luật dân sự. Buộc bị cáo Trần Đình T có nghĩa vụ bồi thường thêm cho bị hại anh Lâm Tiến L số tiền 25.000.000 đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Trần Đình T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 1.250.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

4. Kiến nghị Công an Thành phố Đ bằng các biện pháp nghiệp vụ khẩn trương tiếp tục xác minh, đầu tranh để điều tra làm rõ nhân thân, lai lịch của đối tượng Th nhằm xử lý trách nhiệm hình sự của đối tượng này, tránh bỏ lọt hành vi phạm tội.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại, có quyền kháng cáo yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 106/2021/HSST ngày 21/05/2021 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:106/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về