Bản án 106/2020/DS-ST ngày 14/07/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ CÔNG ĐÔNG, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 106/2020/DS-ST NGÀY 14/07/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 7 năm 2020, tại Tòa án nhân dân huyện Gò Công Đông xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 90/2020/TLST-DS ngày 23 tháng 4 năm 2020, về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2020/QĐXXST-DS ngày 26 tháng 6 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Nguyễn Thị N, sinh năm 19xx (có mặt).

Đa chỉ: Số V đường P, phường B, quận K, thành phố H.

- Bị đơn: Trần Thị C, sinh năm 19xx (có mặt).

Địa chỉ: Ấp L, xã T, huyện Đ, tỉnh G.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo Đơn khởi kiện ngày 20/4/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Nguyễn Thị N trình bày: Vào năm 2018, bà có tham gia góp 04 phần hụi do bà C làm chủ hụi. Tháng 10/2018 chị hốt 02 phần, bà C đã giao tiền hụi và bà góp lại hụi chết đầy đủ cho bà C. Còn lại 02 phần vào ngày 30/12/2019 âm lịch, bà hốt hụi được số tiền 230.000.000 đồng nhưng bà C chỉ giao cho bà 30.000.000 đồng. Đến tháng 02/2020 âm lịch, bà C tuyên bố vỡ hụi, bà C còn nợ bà số tiền là 200.000.000 đồng.

Đến ngày 24/3/2020, bà và bà C thỏa thuận chuyển sồ tiền nợ hụi thành tiền vay và hai bên có lập “Hợp đồng vay tiền không có biện pháp bảo đảm”, thỏa thuận vào ngày 07 hàng tháng bà C sẽ trả cho bà 30.000.000 đồng hết khi hết nợ, thực hiện từ tháng 4/2020 nhưng đến nay bà C không trả cho bà lần tiền nào. Nay bà yêu cầu bà C trả số tiền vay còn nợ là 200.000.000 đồng khi bản án có hiệu lực pháp luật, không yêu cầu trả lãi.

* Tại Biên bản lấy lời khai và trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn bà Trần Thị C trình bày: Bà thống nhất với lời trình bày của bà N. Bà có nợ bà N số tiền hụi là 200.000.000 đồng. Vào ngày 24/3/2020, bà và bà N đã thỏa thuận chuyển số tiền nợ hụi này thành tiền vay và có lập “Hợp đồng vay tiền không có biện pháp bảo đảm”, thỏa thuận vào ngày 07 hàng tháng bà sẽ trả cho bà N 30.000.000 đồng hết khi hết nợ, thực hiện từ tháng 4/2020 nhưng sau đó bà không có tiền trả cho bà N như đã thỏa thuận. Nay bà đồng ý trả lại bà N số tiền 200.000.000 đồng nhưng xin trả dần mỗi tháng 5.000.000 đồng.

* Tại phiên tòa, Kim sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Và về việc giải quyết vụ án Kiểm sát viên đề nghị: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà N, buộc bà C có nghĩa vụ trả cho bà N số tiền còn nợ là 200.000.000 đồng khi án có hiệu lực pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp: Giao dịch giữa bà N và bà C ban đầu là hợp đồng góp hụi nhưng sau đó, các bên đã thỏa thuận chuyển số tiền nợ hụi sang tiền vay theo “Hợp đồng vay tiền không có biện pháp bảo đảm”ngày 24/3/2020. Do đó, Hội đồng xét xử xác định tranh chấp giữa bà N và bà C là quan hệ tranh chấp hợp đồng vay tài sản theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về yêu cầu khởi kiện: Tại phiên tòa, bà N yêu cầu bà C có nghĩa vụ trả số tiền còn nợ là 200.000.000 đồng khi án có hiệu lực pháp luật.

Nhn thấy, tại phiên tòa bà C thừa nhận còn nợ bà N số tiền 200.000.000 đồng; đồng thời theo “Hợp đồng vay tiền không có biện pháp bảo đảm” ngày 24/3/2020 (BL 20, 21), thỏa thuận thời hạn trả tiền vào ngày 07 hàng tháng bà C sẽ trả cho bà N 30.000.000 đồng hết khi hết nợ, thực hiện từ tháng 4/2020 nhưng đến thời hạn bà C không trả nợ cho bà N. Do đó, bà C đã vi phạm về nghĩa vụ trả nợ đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bà N, nay bà C xin trả dần mỗi tháng 5.000.000 đồng nhưng bà N không đồng ý. Vì vậy, yêu cầu của bà N là có cơ sở, phù hợp với khoản 1 Điều 466 Bộ luật dân sự nên được Hội đồng xét xử chấp nhận, buộc bà C phải có nghĩa vụ trả lại bà N số tiền còn nợ là 200.000.000 đồng khi bản án có hiệu lực pháp luật.

[3] Về yêu cầu trả lãi, bà N không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Xét thấy, ý kiến của Kiểm sát viên phù hợp với nhận định trên nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do bà C có nghĩa vụ trả nợ nên bà C phải chịu án phí theo quy định khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án. Bà N không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Điều 463, khoản 1 Điều 466, Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015;

- Căn cứ khoản 3 Điều 26, Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- n cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

* Xử:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị N

- Buộc bà Trần Thị C có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị N số tiền 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng) khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày bà N có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bà C chậm trả khoản tiền nêu trên thì hàng tháng bà C phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.

- Về án phí dân sự sơ thẩm:

Bà N phải chịu án phí là 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).

Hoàn lại bà N số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) theo biên lai số 0017679 ngày 20/4/2020 của C cục Thi hành án dân sự huyện Gò Công Đông.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự được quyền kháng cáo bản án đến Toà án nhân dân tỉnh Tiền Giang để xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

264
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 106/2020/DS-ST ngày 14/07/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:106/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Công Đông - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 14/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về