Bản án 106/2019/HS-ST ngày 24/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 106/2019/HS-ST NGÀY 24/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24/5/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 115/2019/TLST-HS ngày 02/5/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 128/2019/QĐXXST-HS ngày 13/5/2019 đối với các bị cáo:

1. BÙI VĂN T’, sinh năm 1994; HKTT: Xóm T2 , xã TL, huyện LS, tỉnh HB; Chỗ ở: Không cố định; trình độ văn hóa: 9/12; nghề nghiệp: lao động tự do; dân tộc: Mường; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn N và bà Bùi Thị M, tiền án, tiền sự: Theo danh chỉ bản số 147 lập ngày 20/01/2019 do Công an quận Long Biên lập và lý lịch địa phương cung cấp thì bị cáo không có tiền án, tiền sự. Bị bắt ngày 18/01/2019. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 2, thành phố Hà Nội (Có mặt).

2. BÙI TRỌNG T, sinh năm 1989; HKTT: Xóm T3, xã TL, huyện LS, tỉnh HB; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: lao động tự do; dân tộc: Mường; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn T và bà Quách Thị N ; Có vợ là Bùi Thị D , có 2 con, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Theo danh chỉ bản số 148 lập ngày 20/01/2019 do Công an quận Long Biên lập và lý lịch địa phương cung cấp thì bị cáo không có tiền án, tiền sự. Bị bắt ngày 18/01/2019. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 2, thành phố Hà Nội (Có mặt).

* Người bào chữa cho các bị cáo: Bà Đỗ Thị Hương – Luật sư - Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thành phố Hà Nội. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 13h ngày 18/01/2019, Bùi Trọng T và Bùi Văn T’ đi xe buýt từ điểm trung chuyển chợ Long Biên sang khu vực đường NGT, phường ĐG, quận Long Biên, thành phố Hà Nội chơi. Khi T và T’ ngồi uống nước ở vỉa hè thì gặp 01 nam thanh niên tên là H (bạn của T, không rõ nhân thân lai lịch). H rủ T và T’ chung tiền đi mua ma túy để sử dụng, T và T’ đồng ý. Do T và T’ không có tiền nên T nhờ H cầm cố chiếc điện thoại của T. Sau đó, H gọi điện cho người đến cầm cố điện thoại của T được 150.000 đồng. T đưa cho H 150.000 đồng, H đi một lúc thì quay lại đưa cho T’ 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long. T’ mở ra kiểm tra thấy bên trong có 01 gói giấy màu xanh bên trong chứa chất bột màu trắng (T’ biết là heroine) và 05 điếu thuốc lá. T’ cầm bao thuốc lá Thăng Long bên trong có gói ma túy ở lòng bàn tay phải rồi đi bộ cùng T đến khu vực trước cửa số nhà 289 NGT, phường ĐG, quận Long Biên, Hà Nội để chờ xe buýt thì bị tổ công tác - công an phường ĐG kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra tổ công tác phát hiện T’ thả từ tay phải xuống đất tại vị trí T’ đứng 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng bên trong có 01 gói giấy màu xanh chứa chất bột màu trắng. Sau đó, T’ đã nhặt vỏ bao thuốc lá đó lên giao nộp cho tổ công tác. Tại chỗ, T’ khai nhận đó là ma túy heroine của T’ và T mua để sử dụng. Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ niêm phong tang vật sau đó đưa các đối tượng về trụ sở công an phường ĐG để làm rõ. Tang, tài vật thu giữ của T’: 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng bên trong có 01 gói giấy màu xanh chứa chất bột màu trắng và 05 điếu thuốc lá Thăng Long, 01 điện thoại Nokia 1110i.

Tại bản kết luận giám định số 745/KLGĐ-PC54 ngày 24/01/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy màu xanh là ma túy loại Heroin, khối lượng: 0,226 gam.

Tại Bản cáo trạng số 126/CT-VKS-LB ngày 02/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội đã truy tố Bùi Văn T’ và Bùi Trọng T về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Bùi Văn T’ và Bùi Trọng T đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố và khẳng định không bị oan. Các bị cáo đều thừa nhận nếu không bị bắt thì các bị cáo sẽ cùng nhau sử dụng gói ma túy mua được. Đối với số tiền 150.000 đồng là tiền T cầm cố chiếc điện thoại của T để mua ma túy thì T’ sẽ có trách nhiệm trả cho T 75.000 đồng.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa có đủ cơ sở kết luật hành vi của các bị cáo Bùi Văn T’ và Bùi Trọng T đã đủ yếu tố cấu thành tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015. Nhân thân các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, thái độ khai báo là thành khẩn, ăn năn hối cải, là người dân tộc thiểu số cư trú trên địa bàn có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn. Về hình phạt: đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo T’ mức án từ 16-20 tháng tù, đề nghị xử phạt bị cáo T mức án từ 16-20 tháng tù. Về hình phạt bổ sung: đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo vì các bị cáo không có điều kiện thi hành. Về tang vật: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 0,226 gam heroin, 05 điều thuốc lá và vỏ bao thuốc lá Thăng Long. Đề nghị trả lại bị cáo T’ 01 chiếc điện thoại Nokia 1110i nhưng cho tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Tại phiên tòa, Người bào chữa cho các bị cáo Bùi Văn T’ và Bùi Trọng T phát biểu và đề nghị: Nhất trí với quan điểm về tội danh và điều luật áp dụng đối với các bị cáo. Các bị cáo tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, nhận thức pháp luật còn hạn chế, nhân thân chưa có tiền án tiền sự vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử phạt các bị cáo mức án nhẹ hơn đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo vì các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định.

Nói lời sau cùng, các bị cáo nhận thức hành vi của mình là sai, vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an quận Long Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã khai báo thành khẩn và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận tội của các bị cáo Bùi Văn T’ và Bùi Trọng T tại phiên toà phù hợp với lời khai của tại cơ quan điều tra, lời khai người làm chứng, bản kết luận giám định, các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đã truy tố, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 14h10 phút ngày 18/01/2019, tại khu vực trước cửa số nhà 289 NGT, thuộc phường ĐG, quận Long Biên, thành phố Hà Nội, Bùi Văn T’ và Bùi Trọng T có hành vi tàng trữ trái phép 0,226 gam ma túy loại Heroine mục đích để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì tổ công tác Công an phường ĐG phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Hành vi của các bị cáo có đủ dấu hiệu cấu thành tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đã đưa ra các chứng cứ buộc tội và truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật như trên là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương, ảnh hưởng đến công tác đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý của Nhà nước và xã hội nên phải xử lý nghiêm khắc.

Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo đều là người thực hành.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo:

Tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Các bị cáo là người dân tộc thiểu số (dân tộc Mường), cư trú trên địa bàn kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn nên Hội đồng xét xử thấy áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo để thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử thấy hành vi của các bị cáo là nghiêm trọng, bản thân các bị cáo là người nghiện ma túy, vì vậy cần phải áp dụng hình phạt tù, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian giúp các bị cáo cai nghiện ma túy và phòng ngừa tội phạm. Trong vụ án, bị cáo T là người dùng cầm cố điện thoại lấy tiền mua ma túy, bị cáo T’ là người cất giữ ma túy, vai trò là tương đương nhau nên Hội đồng xét xử thấy cần xử phạt 2 bị cáo mức án ngang nhau.

[5] Về hình phạt bổ sung: các bị cáo không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Quan điểm của Viện kiểm sát đề nghị áp dụng hình phạt đối với các bị cáo là có căn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[6] Về tang vật: 0,226 gam heroin thu giữ của các bị cáo là vật cấm lưu hành vì vậy cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long và 05 điếu thuốc không còn giá trị sử dụng nên cho tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động Nokia 1110i thu giữ của bị cáo T’ không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho T’ nhưng cho tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[7] Đối với nam thanh niên tên H do T’, T, khai không biết tên tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ làm rõ để xử lý.

Các bị cáo phải chịu án phí và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Bùi Văn T’, Bùi Trọng T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

 Xử phạt: Bị cáo Bùi Văn T’ 16 (Mười sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 18/01/2019.

 Xử phạt: Bị cáo Bùi Trọng T 16 (Mười sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 18/01/2019.

2. Biện pháp tư pháp:

Tịch thu tiêu hủy 0,226 gam heroin hiện có tại Kho tang vật Công an quận Long Biên theo phiếu nhập vật chứng ngày 16/4/2019.

Tịch thu tiêu hủy 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng bên trong có 5 điếu thuốc lá Thăng Long. Trả lại cho bị cáo Bùi Văn T’ 01 điện thoại di độngNokia 1110i nhưng cho tạm giữ để đảm bảo thi hành án. Tang vật trên hiện có tại Chi cục thi hành án dân sự quận Long Biên theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/5/2019.

3. Án phí: Các bị cáo, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 106/2019/HS-ST ngày 24/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:106/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về