Bản án 106/2019/HS-ST ngày 11/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 106/2019/HS-ST NGÀY 11/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 3 năm 2019, tại Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 93/2019/TLST-HS ngày 22 tháng 02 năm 2019; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 96/2019/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 02 năm 2019 đối với:

- Bị cáo: Trần Chánh B, sinh năm 1996 tại tỉnh Đồng Nai; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú: khu phố A, phường H, thành phố B; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Đức Ph (đã chết) và bà Ngô Thị X; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: Không; tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 29/11/2012 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Biên Hòa quyết định đưa vào trường giáo dưỡng 24 tháng về hành vi trộm cắp tài sản, đến ngày 30/9/2014 chấp hành xong; bị cáo bị bắt, tạm giữ sau đó chuyển tạm giam từ ngày 08 tháng 11 năm 2018 đến nay tại Nhà tạm giữ – Công an thành phố Biên Hòa; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Chánh B là người sử dụng trái phép chất ma túy. Khoảng 18 giờ ngày 08/11/2018, B đến khu vực Công viên 30/4 thuộc phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai để chơi thì gặp người thanh niên tên Q (không rõ lai lịch). B mua của Q 01 (một) gói ma túy (ma túy đá) và trả cho Q 01 (một) thẻ cào điện thoại mạng Viettel mệnh giá 100.000đ (Một trăm nghìn đồng) để sử dụng.

Đến 21 giờ cùng ngày, B cất giấu gói ma túy nêu trên trong túi quần phía trước bên trái B đang mặc rồi điều khiển xe mô tô biển số 60L2-4005 chở bạn là Khổng Quỳnh Gi và chị Nguyễn Khổng Quỳnh H đi chơi (Xe mô tô của Gi giao cho B sử dụng, Gi và chị H không biết việc Ban cất giấu ma túy). Khi B chở chị H và Gi đến khu vực cầu Sập thuộc khu phố B, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai thì bị Tổ công tác Công an tỉnh Đồng Nai phối hợp cùng Công an phường T kiểm tra phát hiện bắt giữ B cùng tang vật, chuyển giao Công an phường T, thành phố B lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Cơ quan điều tra, Trần Chánh B khai nhận hành vi phạm tội như trên.(Biên bản bắt người phạm tội quả tang, bút lục số 01 đến 02;Lời khai bị can, bút lục số: 44 đến 53; Lời khai người làm chứng, bút lục số: 01, 08 đến 09, 14).

* Vật chứng thu giữ của Trần Chánh B: 01(một) gói nylon bên trong chứa tinh thể màu trắng (kí hiệu M) (Bút lục số 02).

* Tại Kết luận giám định số 574/PC09-GĐMT ngày 14/11/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự thuộc Công an tỉnh Đồng Nai đã kết luận: “ Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng là: 0,1402 gam, loại: Methamphetamine” (Bút lục số: 22).Đối với xe mô tô biển số 60L2-4005 của Khổng Quỳnh Gi giao cho B điều khiển nhưng không biết B cất giấu ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa không thu giữ.

Tại Cáo trạng số: 103/CT-VKSBH-HS ngày 19/02/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Trần Chánh B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều 249, Khoản 1, Điểm c của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị;

+ Áp dụng Điểm c, Khoản 1, Điều 249 và Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Trần Chánh B từ 16 (mười sáu) tháng đến 20 (hai mươi) tháng tù.

+ Xử lý vật chứng theo quy định.

- Lời nói sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã mô tả, nhận thức được hành vi sai trái của mình và xin giảm nhẹ hình phạt

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tố tụng:

Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự; các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ.

[2] Về hành vi bị truy tố:

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Chánh B thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố; Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp lời khai trong biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, kết luận giám định, biên bản hỏi cung bị can, biên bản lấy lời khai người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trần Chánh B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[3] Về tội danh và các tình tiết liên quan đến việc quyết định hình phạt

- Về tội danh: Căn cứ Kết luận giám định số 574/PC09-GĐMT ngày 14/11/2018 nêu trên; có cơ sở xác định bị cáo Trần Chánh B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c, Khoản 1, Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo là người nghiện ma túy, nhận thức rõ được tác hại của ma túy nhưng vẫn tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Ngày 29/11/2012, bị cáo đã bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Biên Hòa quyết định đưa vào trường giáo dưỡng 24 tháng về hành vi trộm cắp tài sản, đến ngày 30/9/2014 bị cáo chấp hành xong nhưng không lấy đó làm bài học tu dưỡng rèn luyện bản thân. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Vì vậy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4] Về vật chứng

- Tịch thu tiêu hủy vật chứng được kết luận là ma túy.

[5] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Trần Chánh B phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm;

[6] Nhận định về phần trình bày của Kiểm sát viên, bị cáo tại phiên tòa:

- Đối với phần trình bày của Kiểm sát viên: Cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh nêu trên và đề nghị mức hình phạt là phù hợp nên được chấp nhận.

- Đối với phần trình bày của bị cáo tại phiên tòa phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Chánh B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng Điểm c, Khoản 1, Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Xử phạt bị cáo Trần Chánh B 01(một) năm 06 (sáu) tháng tù; thời hạn tùđược tính từ ngày 08 tháng 11 năm 2018. Tiếp tục tạm giam bị cáo theo Quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử để bảo đảm thi hành án.

2. Xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm a, Khoản 1, Điều 46; điểm c, Khoản 1, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong số 574/PC09-GĐMT ngày 14/11/2018. Vật chứng này hiện đang lưu giữ tại Chi Cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 21 tháng 02 năm 2019.

3. Về án phí: Buộc bị cáo Trần Chánh B phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm;

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Trần Chánh B được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 106/2019/HS-ST ngày 11/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:106/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về