Bản án 105/2021/HSST ngày 30/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

 BẢN ÁN 105/2021/HSST NGÀY 30/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 108/2021/TLST- HS ngày 17 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 117/2021/QĐXXST-HS ngày 18/6/2020, đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn Đ.E, sinh năm 1991, tại tỉnh An Giang; hộ khẩu thường trú: Ấp MA, xã NM, huyện CM, tỉnh An Giang; chỗ ở: Khu phố 7, phường CPH, thị xã BC, Bình Dương; Nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Hòa Hảo; con ông Nguyễn Văn Đ và bà Nguyễn Thị N; tiền án, tiền sự: Không. Ngày 07/12/2020, bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Bến Cát cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Huỳnh Trí K, sinh năm 1992, tại tỉnh An Giang; hộ khẩu thường trú: Ấp BM, xã BM, huyện CP, tỉnh An Giang; chỗ ở: khu phố 4, phường MP, thị xã BC, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Hòa Hảo; con ông Huỳnh Tấn L, sinh năm: 1974 và bà Tô Thị H, sinh năm: 1972; bị cáo có vợ là Nguyễn Thị H; tiền án, tiền sự: Không. Ngày 07/12/2020, bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Bến Cát cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

3. Nguyễn Văn T, sinh năm 1989, tại tỉnh An Giang; hộ khẩu thường trú: Ấp BH, xã BL, huyện CP, tỉnh An Giang; Chỗ ở: khu phố 4, phường MP, thị xã BC, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc Kinh; Tôn giáo: Hòa Hảo; con ông Nguyễn Văn C, sinh năm: 1967 và bà Trần Thị Kim B, sinh năm: 1968; bị cáo có vợ là Trần Thị Bích T, sinh năm 1992 và có 01 con, sinh năm 2009; tiền án, tiền sự: Không. Ngày 07/12/2020, bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Bến Cát cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

4. Giang Thị Kim C, sinh năm 1989, tại tỉnh Kiên Giang; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp PT, xã MP, huyện HĐ, tỉnh Kiên Giang; chỗ ở: Khu phố 4, phường MP, thị xã BC, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 12/12; con ông Giang Văn G, sinh năm 1948 và bà Ngô Thị N, sinh năm 1950; bị cáo có chồng là Trần Hải L, sinh năm 1987 (đã chết) và có 02 con, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không. Ngày 07/12/2020, bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Bến Cát cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

5. Phạm Ngọc A, sinh năm 1972, tại Thành phố Hà Nội; sổ hộ khẩu: Khu phố 4, phường MP, thị xã BC, tỉnh Bình Dương; chỗ ở: Khu phố 3, phường MP, thị xã BC, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ học vấn: 10/12; con ông Phạm Như L, sinh năm 1948 và bà Trần Bích K, sinh năm 1948; bị cáo có chồng là Bùi Minh P, sinh năm 1957; bị cáo có 01 con sinh năm 1992. Ngày 07/12/2020, bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Bến Cát cho đến ngày 09/02/2021 thì được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, cho đến ngày 22/6/2021 bị bắt tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Bến Cát cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

6. Trần Thanh T1, sinh năm 1995, tại tỉnh Hà Tĩnh; hộ khẩu thường trú: Thôn 5, xã CH, huyện CX, tỉnh Hà Tĩnh; chỗ ở: Khu phố 3, phường MP, thị xã BC, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Làm thuê; con ông Trần Đức N, sinh năm:1960 (đã chết) và bà Trần Thị L, sinh năm: 1965 (đã chết); tiền án, tiền sự: Không. Ngày 07/12/2020, bị cáo bị bắt khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Bến Cát. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Cơ sở kinh doanh dịch vụ Karaoke R; địa chỉ: Khu phố 3, phường MP, thị xã BC, tỉnh Bình Dương.

Chủ cơ sở (người đại diện hợp pháp): Ông Bùi Minh P, sinh năm 1957; hộ khẩu thường trú tại: Khu phố 4, phường MP, thị xã BC, tỉnh Bình Dương. Có yêu cầu xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 17 giờ 20 phút ngày 07 tháng 12 năm 2020, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế - Ma túy phối hợp với Công an phường MP, thị xã BC tiến hành kiểm tra hành chính phòng Vip 5 của cơ sở kinh doanh dịch vụ Karaoke R trên đường DC6, khu phố 3, phường MP, thị xã BC, tỉnh Bình Dương. Qua kiểm tra thì phát hiện Giang Thị Kim C, Nguyễn Văn Đ.E đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngoài ra, trong phòng còn có Nguyễn Văn T, Huỳnh Trí K và Ngô Hồng T2. Lực lượng công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Em, C và tiến hành thu giữ:

- Một nửa viên nén màu hồng (ký hiệu M1-1); 10 (Mười) viên nén màu hồng thu giữ của Giang Thị Kim C (ký hiệu M1-2);

- 03 (Ba) túi nylon miệng kéo bên trong chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu lần lượt là M2, M3, M5), 01 (Một) viên nén màu hồng (ký hiệu M4), 01 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 5000 đồng đựng tinh thể màu trắng (ký hiệu M6-2), 01 (Một) mảnh vỡ viên nén màu hồng (ký hiệu là M6-1 thu giữ của Nguyễn Văn Đ.E.

- 01 (Một) xe môtô hiệu Exciter màu xanh trắng, biển số 71B2 226.41; số khung: 5P10EY417104, số máy: 55P1-417123 thu giữ của Nguyễn Văn Đ.E.

- 01 (Một) đĩa sứ; 01 (Một) card đựng sim Viettel có mã số 8984 0480 0006 0485 668; 01 (Một) ống hút được quấn bằng tờ tiền 20.000 đồng của bị can Nguyễn Văn Đ.E .

Qua điều tra, quản lý quán Karaoke là Phạm Ngọc A, nhân viên phục vụ phòng vip 5 là Trần Thanh T1. Cơ quan Cảnh sát điều tra tiến hành giữ khẩn cấp đối với Phạm Ngọc A và Trần Thanh T1 đồng thời tiến hành khám xét khẩn cấp quán Karaoke R, tiến hành thu giữ:

- 01 (Một) đèn quay màu đen không rõ nhãn hiệu; 03 (Ba) loa màu đen nhãn hiệu hiệu GT; 01 (Một) máy phun khói màu trắng đen nhãn hiệu FOGGER;

02 (Hai) loa màu đen không rõ nhãn hiệu; 01 (Một) đèn màu đen hiệu Laser Ghow System; 03 (Ba) đèn Cếu sáng màu đen nhãn hiệu Beam; 01 (Một) đèn Cếu sáng không rõ nhãn hiệu; 01 (Một) máy lưu trữ dữ liệu phát nhạc hiệu Kara màu bạc đen; 01 (Một) tivi 42 inch màu đen nhãn hiệu Panasonic; 01 (Một) đầu CPU nhãn hiệu Dell màu đen; 01 (Một) màn hình máy vi tính nhãn hiệu Dell màu đen; 01 (Một) máy in hoá đơn màu đen nhãn hiệu Sewoo của quán Karaoke do Phạm Ngọc A quản lý.

- 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO gắn sim thuê bao số 0705 228 913 của Trần Thanh T1.

Tại Cơ quan điều tra, các Giang Thị Kim C, Nguyễn Văn Đ.E, Nguyễn Văn T, Huỳnh Trí K, Ngô Hồng T2, Phạm Ngọc A, Trần Thanh T1 khai nhận như sau:

Nguyễn Văn Đ.E, Nguyễn Văn T, Huỳnh Trí K, Vi và Phúc (chưa rõ lai lịch) là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy. Nguồn ma túy mà các đối tượng có để sử dụng là do Đ.E mua của đối tượng Khoa (không rõ nhân thân lai lịch) tại khu vực vòng xoay khu 2, phường MP, thị xã BC, tỉnh Bình Dương.

Khoảng 20 giờ ngày 06/12/2020, C gặp Đ.E tại quán không rõ tên tại khu công nghiệp Mỹ Phước II thuộc phường MP, thị xã BC, tỉnh Bình Dương. Tại đây, Đ.E hỏi mượn C số tiền 4.000.000 đồng, hẹn ngày 07/12/2020 sẽ trả bằng tiền mặt nên C nhờ Đ.E tìm mua giúp 10 viên thuốc lắc với giá 250.000 đồng/viên, tiền mua ma túy sẽ trừ vào số tiền mà Đ.E mượn C nên Đ.E đồng ý.

Khoảng 12 giờ ngày 07/12/2020, Đ.E, T, K, Vi, Phúc cùng uống cà phê tại quán Nga Linda đường DB6, khu phố 3, phường MP, thị xã BC. Tại đây, các đối tượng rủ nhau hùn mua 05 viên thuốc lắc và khoảng 2,5gam Ketamine và cùng sử dụng. Đ.E tự mua ma túy trước để mọi người cùng sử dụng tại quán karaoke, sau khi sử dụng sẽ Ca đều C phí cho những người tham gia. Đ.E gọi cho Khoa hỏi mua khoảng 2,5 gam Ketamine, 15 (mười lăm) viên thuốc lắc Ca làm hai phần gồm một phần 05 (năm) viên và một phần 10 (mười) viên thì Khoa đồng ý và hẹn giao ma túy tại khu vực vòng xoay khu 2, phường MP, thị xã BC, tỉnh Bình Dương. Sau đó, Đ.E điều khiển xe môtô biển số 71B2-226.41 đi đến điểm hẹn và mua được 01 (một) túi nylon miệng kéo dính chứa 10 (mười) viên thuốc lắc, 01 (một) túi nylon miệng kéo dính chứa 05 (năm) viên thuốc lắc với giá 250.000 đồng/viên và 02 (Hai) túi nylon miệng kéo dính chứa khoảng 2,5gam Ketamine của Khoa với giá 2.500.000 đồng, tổng cộng là 6.250.000 đồng.

Trong lúc Đ.E đi mua ma túy thì T, K, Vi, Phúc đi đến quán Karaoke R trước và được Trần Thanh T1 là nhân viên phục vụ dẫn vào phòng Vip 5 (là phòng đặc biệt dành cho những đối tượng muốn sử dụng ma túy). Đ.E kêu T1 lấy đĩa sứ đem vào phòng đồng thời nhắn tin rủ C đến để cùng sử dụng ma túy và nhận 10 (mười) viên thuốc lắc mà C đã nhờ Đ.E mua từ trước. T1 vào bếp lấy đĩa sứ đồng thời thông báo cho A biết phòng Vip 5 sử dụng ma túy để khi tính tiền sẽ thu mức giá cao hơn phòng hát karaoke bình thường. A biết việc sử dụng ma túy và cho phép, T1 lấy đĩa sứ đem vào phòng Vip 5 cho nhóm của Đ.E.

Đ.E vào và lấy túi nylon miệng kéo dính chứa 05 (năm) viên thuốc lắc, 02 (Hai) túi nylon miệng kéo dính chứa khoảng 2,5gam Ketamine để lên bàn và thông báo cho T, K, Vi, Phúc biết đã mua được ma tuý. Đ.E dùng tờ tiền 20.000 đồng cuộn tròn lại rồi hít, lấy một phần Ketamine trong 01 (Một) túi nylon (M3) đổ lên dĩa sứ và dùng 01 thẻ nhựa (dùng để gắn sim điện thoại chưa sử dụng) cà nhuyễn. Phần Ketamine còn dư lại trong túi nylon (M3) thì Đ.E để lên bàn cùng túi nylon Ketamine chưa sử dụng (M5). Đồng thời lấy một ít Ketamine trong đĩa bỏ lên tờ tiền 5000 đồng (M6-2) dùng bật lửa hơ nóng mặt dưới để sử dụng trước nhưng không hết nên Đ.E gói lại cất vào túi quần bên phải, phía trước. Tiếp sau đó, Đ.E bẻ 04 (bốn) viên thuốc lắc thành bảy phần (mỗi phần khoảng ½ viên), mảnh vụn rơi ra trong quá trình bẻ viên thuốc lắc (M6-1) Đ.E dùng mảnh giấy màu đen gói lại và để chung vào Ketamine được gói bằng tờ tiền 5.000 đồng (M6-2) đã cất từ trước trong túi quần bên phải, phía trước của Cếc quần .

Sau đó, Đ.E sử dụng ½ viên thuốc lắc và đưa cho T, K, Vi, Phúc mỗi người ½ viên để cùng sử dụng, còn lại 02 (hai) phần (mỗi phần ½ viên) và 01 (một) viên nguyên (M4) Đ.E để trên ghế sát bên vị trí Đ.E ngồi. Sau đó, Đ.E kêu T1 gọi thêm người phục vụ sử dụng ma túy với giá 500.000 đồng/lần, T1 gọi điện thoại cho T2 đến để phục vụ và cùng sử dụng ma túy. T2 đồng ý và hứa sẽ trả phí môi giới cho T1 với giá 10.000 đồng/lần.

Khoảng 14 giờ ngày 07/12/2020 C đến phòng vip 5. Đ.E đưa cho C 01 (một) túi nylon miệng kéo dính chứa 10 (mười) viên thuốc lắc (M1-2) mà C đã nhờ mua từ trước, C cất giấu vào túi xách màu đỏ để tại vị trí C đang ngồi. Đ.E lấy ½ viên thuốc lắc (M1-1) đưa cho C sử dụng nhưng do C không sử dụng nên cất vào túi quần bên phải, phía trước Cếc quần của C và C sử dụng ketamine cùng nhóm của Đ.E.

Khoảng 15 giờ ngày 07/12/2020, T2 đi đến quán Karaoke được T1 dẫn vào phòng Vip 5 để sử dụng ma túy. Đ.E lấy ½ viên ma túy đưa cho T2 sử dụng, còn lại 01 (một) viên nguyên (M4) Đ.E để trên ghế cạnh vị trí mình đang ngồi. Lúc này, Vi và Phúc sử dụng ma túy xong nên về trước, trong phòng còn lại Đ.E, C, K, T, T2 vẫn tiếp tục sử dụng ma túy. Khi Đ.E, C, K, T, T2 đang sử dụng ma túy trong phòng Vip 5 thì bị lực lượng Công an vào kiểm tra, do lo sợ nên Đ.E lấy 02 (Hai) túi nylon miệng kéo dính chứa tổng cộng 2,6335gam Ketamine (M3 + M5) đang để trên bàn ném xuống dưới chân Đ.E đang ngồi, C cũng mở túi xách lấy 01 (một) túi nylon chứa 10 (mười) viên thuốc lắc tổng trọng lượng là 4,2073gam MDMA (M1-2) và lấy trong túi quần có ½ viên nén màu hồng có khối lượng là 0,1875gam MDMA (M1-1) nhét vào khe ghế để phi tang nhưng đã bị Công an phát hiện, thu giữ. Qúa trình kiểm tra, lực lượng Công an phát hiện, thu giữ tại vị trí ghế sau lưng Đ.E ngồi có 01 (Một) viên nén màu hồng có khối lượng 0,4023gam MDMA (M4), trên dĩa sứ đặt trên bàn trong phòng còn lại 0,2507gam Ketamine (M2) đang sử dụng; Trong túi quần bên phải, phía trước của Cếc quần Đ.E đang mặc có 01 (Một) mảnh vỡ viên nén màu hồng khối lượng 0,1123gam (M6-1), 0,0927gam Ketamine (M6-2) được gói bằng tờ tiền 5.000 đồng.

Đối với Phạm Ngọc A và Trần Thanh T1, kết quả điều tra thể hiện:

A đã nhiều lần cho thuê phòng hát karaoke để khách sử dụng ma túy, lần gần nhất là từ 20 giờ ngày 06/12/2020 đến 01 giờ ngày 07/12/2020; trong đó nhóm của Em đã đến khoảng 03 lần. Khi khách thuê phòng để sử dụng ma túy A sẽ tính tiền giờ cao hơn so với bình thường, cụ thể: phòng bình thường cho thuê với giá 160.000 đồng/giờ đến 180.000 đồng/giờ, còn khách thuê để sử dụng trái phép chất ma túy sẽ cho thuê với giá 230.000 đồng/giờ đến 300.000 đồng/giờ. Khi nhóm của Em thuê phòng hát xong thì A biết cả nhóm đang sử dụng trái phép chất ma túy trong phòng. Đối với T1 là nhân viên làm cho A, việc T1 cung cấp dụng cụ, hỗ trợ, giúp đỡ nhóm của Em sử dụng ma túy và gọi người đến phục vụ nhóm của Em, A đều biết và cho phép.

Căn cứ kết luận giám định số 768/MT-PC09 ngày 25/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma tuý, có tổng cộng khối lượng/trọng lượng là M1-1=0,1875gam, M1- 2=4,2073gam, M4=0,4023gam, M6-1=0,1123gam cùng loại MDMA, M2= 0, 2507gam, M3=1,2777gam; M5=1,3558gam; M6-2=0,0927gam cùng loại Ketamine.Tổng khối lượng các chất ma túy: 4,9094 gam MDMA, 2,9769 gam Ketamine.

Về vật chứng:

- 3,0279gam MDMA, 1,5788gam Ketamine hoàn lại sau giám định.

- 01 (Một) card đựng sim Viettel có mã số 8984048000060485668 là của Nguyễn Văn Đ.E dùng để dầm nhuyễn Ketamine sử dụng.

- 01 (Một) ống hút được quấn bằng tờ tiền Việt Nam mệnh giá 20.000 đồng, 01 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 5000 đồng đựng tinh thể màu trắng là của Nguyễn Văn Đ.E dùng để hít ma túy.

- 01 (Một) đĩa sứ; 01 (Một) đèn quay màu đen không rõ nhãn hiệu; 03 (Ba) loa màu đen nhãn hiệu hiệu GT; 01 (Một) máy phun khói màu trắng đen nhãn hiệu FOGGER; 02 (Hai) loa màu đen không rõ nhãn hiệu; 01 (Một) đèn màu đen hiệu Laser Ghow System; 03 (Ba) đèn Cếu sáng màu đen nhãn hiệu Beam; 01 (Một) đèn Cếu sáng không rõ nhãn hiệu; 01 (Một) máy lưu trữ dữ liệu phát nhạc hiệu Kara màu bạc đen; 01 (Một) tivi 42 inch màu đen nhãn hiệu Panasonic; 01 (Một) đầu CPU nhãn hiệu Dell màu đen; 01 (Một) màn hình máy vi tính nhãn hiệu Dell màu đen; 01 (Một) máy in hoá đơn màu đen nhãn hiệu Sewoo. Tất cả đều là của Phạm Ngọc A đặt tại quán Karaoke R cho nhóm của Nguyễn Văn Đ.E thuê để sử dụng ma túy.

- 01 (Một) xe môtô hiệu Exciter màu xanh trắng, biển số 71B2 226.41; số khung: 5P10EY417104, số máy: 55P1-417123 do anh Lê Minh Trí (sinh năm 1992; nơi đăng ký thường trú: ấp Long Trạch, xã Cẩm Sơn, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre) đứng tên chủ sở hữu. Anh Trí mua xe môtô nói trên vào khoảng đầu tháng 07/2014 với giá 42.000.000 đồng. Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 07/12/2020, Đ.E hỏi mượn xe môtô biển số 71B2 226.41 của anh Trí để đi công việc cá nhân, sau đó, Đ.E sử dụng Cếc xe môtô nói trên để đi mua ma túy đem về quán Karaoke R cất giấu, sử dụng thì bị bắt quả tang và tạm giữ xe. Ngày 02/5/2021, Cơ quan CSĐT ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trao trả xe môtô hiệu Exciter màu xanh trắng, biển số 71B2 226.41 cho anh Trí. Anh trí đã nhận lại xe và không có yêu cầu gì thêm.

Tại bản Cáo trạng số 109/CT- VKS-BC ngày 15/6/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Văn Đ.E về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015; Giang Thị Kim C phạm về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Huỳnh Trí K, Nguyễn Văn T phạm về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Phạm Ngọc A, Trần Thanh T1 phạm về tội: “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b và điểm d khoản 2 Điều 256 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo: Nguyễn Văn Đ.E về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm n khoản 2 Điều 249; Giang Thị Kim C phạm về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249; Huỳnh Trí K, Nguyễn Văn T phạm về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249; Phạm Ngọc A, Trần Thanh T1 phạm về tội: “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b và điểm d khoản 2 Điều 256 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với các bị cáo.

Xử phạt các bị cáo với mức án như sau:

Nguyễn Văn Đ.E mức án từ 07 năm đến 08 năm tù; Huỳnh Trí K mức án từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù; Nguyễn Văn T mức án từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù; Giang Thị Kim C mức án từ 04 năm đến 05 năm tù;

Phạm Ngọc Anh mức án từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng; Trần Thanh T1 mức án từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng; Về xử lý vật chứng:

Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tuyên tịch thu tiêu hủy: 3,0279 gam MDMA, 1,5788 gam Ketamine sau giám định được Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương niêm phong;

01 (Một) đĩa sứ; 01 (Một) card đựng sim Viettel có mã số 8984 0480 0006 0485 668.

- Tuyên tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO gắn sim thuê bao số 0705 228 913; 01 (Một) ống hút được quấn bằng tờ tiền mệnh giá 20.000VNĐ; 01 tờ tiền mệnh giá 5.000 đồng;

- Tuyên trả lại cho chủ sở hữu là ông Bùi Minh P – Chủ cơ sở kinh doanh dịch vụ Karaoke R các tài sản gồm: 01 (Một) đèn quay màu đen không rõ nhãn hiệu; 03 (Ba) loa màu đen nhãn hiệu hiệu GT; 01 (Một) máy phun khói màu trắng đen nhãn hiệu FOGGER; 02 (Hai) loa màu đen không rõ nhãn hiệu; 01 (Một) đèn màu đen hiệu Laser Ghow System; 03 (Ba) đèn Cếu sáng mãu đen nhãn hiệu Beam; 01 (Một) đèn Cếu sáng không rõ nhãn hiệu; 01 (Một) máy lưu trữ dữ liệu phát nhạc hiệu Kara màu bạc đen; 01 (Một) tivi 42 inch màu đen nhãn hiệu Panasonic; 01 (Một) đầu CPU nhãn hiệu Dell màu đen; 01 (Một) màn hình máy vi tính nhãn hiệu Dell màu đen; 01 (Một) máy in hoá đơn màu đen nhãn hiệu Sewoo.

Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã mô tả và thừa nhận hành vi của mình như lời luận tội của đại diện Viện Kiểm sát. Trong phần tranh luận, bị cáo không tranh luận mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của vị đại diện Viện Kiểm sát, bị cáo cùng những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Công an thị xã Bến Cát, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Đối với sự tham gia tố tụng của người bào chữa cho bị cáo Phạm Ngọc A: Quá trình điều tra, mẹ của bị can A là bà Trần Bích K có Đơn yêu cầu người bào chữa cho bị can Phạm Ngọc A và Luật sư Nguyễn Thị Mỹ D được Cơ quan Điều tra Công an thị xã Bến Cát chấp nhận tham gia tố tụng với tư cách Người bào chữa cho bị can Phạm Ngọc A. Trong giai đoạn điều tra người bào chữa đã thực hiện đúng về quyền, nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tuy nhiên tại phiên tòa hôm nay, người bào chữa vắng mặt, đồng thời bị cáo A có ý kiến: Không tiếp tục yêu cầu Luật sư Nguyễn Thị Mỹ D làm người bào chữa cho mình mà bị cáo sẽ thực hiện quyền tự bào chữa cho bản thân. Do đó HĐXX không đưa bà Nguyễn Thị Mỹ D tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách người bào chữa của bị cáo A.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo thể hiện như sau:

Trong khoảng thời gian từ 12 giờ đến 17 giờ 20 phút ngày 07 tháng 12 năm 2020, Nguyễn Văn Đ.E đã có hành vi hùn tiền với Huỳnh Trí K, Nguyễn Văn T, Vi, Phúc (chưa rõ lai lịch) được 4.000.000 đồng, mua 0,5146gam MDMA, 2,9769 gam Ketamine và mua giúp 4,3948gam MDMA cho Giang Thị Kim C với giá 2.500.000 đồng của đối tượng tên Khoa (chưa rõ lai lịch). Sau đó, Đ.E đem số ma túy trên về phòng vip 5 của quán Karaoke R trên đường DC6, khu phố 3, phường MP cùng với Huỳnh Trí K, Nguyễn Văn T, Vi, Phúc, Giang Thị Kim C sử dụng. Phạm Ngọc A là người trực tiếp quản lý quán Karaoke R, Phạm Ngọc A biết việc các bị cáo vào thuê phòng hát Karaoke và sử dụng ma túy nhưng bị cáo A vẫn cho phép các bị cáo sử dụng nhằm mục đích thu lợi bất chính từ việc nâng giá tiền phòng từ mức bình thường lên mức cao hơn với mức giá từ 230.000 đồng/giờ đến 300.000 đồng/giờ. Bị cáo đã 03 lần cho nhóm của bị cáo Đ.E sử dụng phòng hát Karaoke Vip 5 để làm nơi sử dụng ma túy, ngoài lần bị bắt thì có lần gần nhất là từ 20 giờ ngày 06/12/2020 đến 01 giờ ngày 01 giờ ngày 07/12/2020. Tổng số tiền bị cáo A đã thu lợi bất chính từ việc cho các bị cáo sử dụng địa điểm để sử dụng ma túy là 750.000 đồng. Trần Thanh T1 là nhân viên làm thuê của Quán Karaoke R, T1 đã giúp sức cho A trong việc nhiều lần cho nhóm của Đ.E sử dụng phòng hát Vip5 của quán Karaoke làm nơi sử dụng ma túy, Trần Thanh T1 còn là người liên lạc với Ngô Hồng T2 tới giúp sức cho các bị cáo thực hiện hành vi sử dụng ma túy.

Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận:

- Hành vi bàn bạc và trực tiếp mua 0,5146gam MDMA, 2,9769gam Ketamine để cùng sử dụng với các bị cáo và hành vi mua giúp 4,3948gam MDMA cho Giang Thị Kim C, tổng trọng lượng là 4,9094gam MDMA, 2,9769gam Ketamine của Nguyễn Văn Đ.E đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Hành vi cất giấu 4,3948gam MDMA nhằm mục đích sử dụng của bị can Giang Thị Kim C đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Hành vi bàn bạc thống nhất góp tiền để bị can Nguyễn Văn Đ.E đi mua 0,5146gam MDMA, 2,9769gam Ketamine nhằm mục đích sử dụng của bị can Nguyễn Văn T, Huỳnh Trí K đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm i khoản 1 điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Hành vi cho Giang Thị Kim C, Nguyễn Văn Đ.E, Huỳnh Trí K, Nguyễn Văn T, đối tượng Vi, Phúc, Ngô Hồng T2 thuê phòng trong cơ sở kinh doanh Karaoke R do mình quản lý để sử dụng ma túy nhằm mục đích thu lợi bất chính của Phạm Ngọc A đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b, d khoản 2 điều 256 Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Hành vi giúp sức cho Phạm Ngọc A nhiều lần phục vụ Giang Thị Kim C, Nguyễn Văn Đ.E, Huỳnh Trí K, Nguyễn Văn T thuê phòng trong cơ sở kinh doanh Karaoke R để sử dụng ma túy của Trần Thanh T1 đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 2 Điều 256 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Do đó, bản Cáo trạng số 109/CT- VKS-BC ngày 15/6/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát truy tố bị cáo: Nguyễn Văn Đ.E về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm n khoản 2 Điều 249; Giang Thị Kim C phạm về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249; Huỳnh Trí K, Nguyễn Văn T phạm về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249; Phạm Ngọc A, Trần Thanh T1 phạm về tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b và điểm d khoản 2 Điều 256 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Các bị cáo hoàn toàn có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương. Ngoài ra, ma túy là một loại chất độc dược gây ra tác hại rất lớn về nhiều mặt cho xã hội, làm ảnh hưởng đến sức khỏe của người sử dụng và cũng là mầm mống lan truyền các căn bệnh xã hội như HIV, AIDS, .... vv. Ma túy còn là nguyên nhân dẫn đến những loại tội phạm khác.

Bản thân các bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, nhận thức được tác hại của ma túy, biết rằng việc tàng trữ, sử dụng cũng như chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm và sẽ bị trừng trị nhưng các bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của các bị cáo thể hiện ý thức xem thường pháp luật. Do đó việc đưa các bị cáo ra xét xử là cần thiết, cần xử phạt các bị cáo với mức án phù hợp, cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục riêng đối với các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội, nhất là trong giai đoạn hiện nay, tình hình tội phạm về ma túy diễn ra ngày càng nhiều, thủ đoạn ngày càng tinh vi, để lại những hậu quả nặng nề, gây nhiều bức xúc cho xã hội.

[3] Về tính chất đồng phạm:

Các bị cáo phạm tội với tính chất đồng phạm giản đơn.

Trong tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thì các bị cáo K, T và Đ.E bàn bạc cùng góp tiền mua ma túy sử dụng và Đ.E là người trực tiếp đi tìm, mua ma túy về cho các bị cáo cùng sử dụng; Bị cáo C là người đã đề xuất và kêu Nguyễn Văn Đ.E mua ma túy giúp C để C tàng trữ, nhằm mục đích sử dụng.

Trong tội: “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” thì bị cáo A là người đồng ý cho các bị cáo thuê phòng hát làm địa điểm sử dụng ma túy nhiều lần và bị cáo T1 là người đã giúp sức cho A phục vụ cho các bị cáo khác được sử dụng ma túy tại địa điểm do bị cáo A quản lý.

Xét vai trò và tính chất mức độ của từng bị cáo là khác nhau, nên HĐXX sẽ xem xét áp dụng hình phạt thật phù hợp và tương xứng với từng bị cáo.

[3] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được cân nhắc, xem xét khi quyết định hình phạt gồm: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn, hối cải nên đều được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Đối với bị cáo Phạm Ngọc A có chồng là ông Bùi Minh P là người có công với cách mạng, từng tham gia Cến đấu ở Cến trường CampuCa và được tặng thưởng huy hiệu: “Vì nghĩa vụ Quốc tế” và được tặng thưởng Huân chương “Cến sĩ vẽ vang” hạng ba. Ngoài ra, gia đình bị cáo A có hoàn cảnh neo đơn, bị cáo phải chăm sóc chồng là ông Phương thường hay đau ốm do di chứng của Cến tranh, do đó bị cáo A được xem xét thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Bị cáo Giang Thị Kim C đang nuôi 02 con nhỏ, nên được HĐXX xem xét áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[4] Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, đều có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội.

[5] Xét thấy, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt mà đại diện Viện Kiểm sát đề nghị áp dụng đối với các bị cáo là tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội của các bị cáo, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

- Đối với xe mô tô hiệu Exciter màu xanh trắng, biển số 71B2 226.41 mà bị cáo Đ.E sử dụng làm phương tiện phạm tội trong vụ án. Xe mô tô thuộc sở hữu của ông Lê Minh T3. Ngày 07/12/2020, ông T3 đã cho Đ.E mượn để đi công việc cá nhân. Ông T3 không biết việc Đ.E sử dụng Cếc xe môtô nói trên để đi mua ma túy đem về quán Karaoke R cất giấu, sử dụng. Do đó, ngày 02/5/2021, Cơ quan CSĐT ra Quyết định xử lý vật chứng, giao trả xe môtô hiệu Exciter màu xanh trắng, biển số 71B2 226.41 cho ông T3 là có căn cứ, phù hợp quy định pháp luật.

- Đối với các vật chứng: 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO; 01 (Một) ống hút được quấn bằng tờ tiền mệnh giá 20.000 VNĐ; 01 tờ tiền mệnh giá 5.000 đồng. Xét đây là công cụ, phương tiện mà các bị cáo sử dụng vào mục đích phạm tội, có giá trị sử dụng, nên cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước;

- Đối với vật chứng là 3,0279 gam MDMA, 1,5788 gam Ketamine sau giám định được Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương niêm phong, hoàn lại sau giám định; 01 (Một) đĩa sứ; 01 (Một) card đựng sim Viettel có mã số 8984 0480 0006 0485 668; 01 sim số 0705228913. Xét đây là công cụ phạm tội, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với các vật chứng gồm: 01 (Một) đèn quay màu đen không rõ nhãn hiệu; 03 (Ba) loa màu đen nhãn hiệu hiệu GT; 01 (Một) máy phun khói màu trắng đen nhãn hiệu FOGGER; 02 (Hai) loa màu đen không rõ nhãn hiệu; 01 (Một) đèn màu đen hiệu Laser Ghow System; 03 (Ba) đèn Cếu sáng mãu đen nhãn hiệu Beam; 01 (Một) đèn Cếu sáng không rõ nhãn hiệu; 01 (Một) máy lưu trữ dữ liệu phát nhạc hiệu Kara màu bạc đen; 01 (Một) tivi 42 inch màu đen nhãn hiệu Panasonic; 01 (Một) đầu CPU nhãn hiệu Dell màu đen; 01 (Một) màn hình máy vi tính nhãn hiệu Dell màu đen; 01 (Một) máy in hoá đơn màu đen nhãn hiệu Sewoo. Xét đây là tài sản thuộc sở hữu của Cơ sở kinh doanh dịch vụ Karaoke do ông Bùi Minh P làm chủ, ông Phương đã giao lại cho bà Phạm Ngọc A điều hành hoạt động kinh doanh của quán theo đúng quy định pháp luật. Xét thấy, hành vi vi phạm pháp luật thuộc trách nhiệm cá nhân của bà A mà không phải của Cơ sở kinh doanh dịch vụ Karaoke R. Ông Bùi Minh P không biết việc các bị cáo sử dụng quán Karaoke của mình để sử dụng ma túy, ông Phương cũng không biết việc bà A đã cho các bị cáo thuê phòng hát và các vật dụng để sử dụng ma túy do đó cần tuyên trả lại những tài sản trên cho chủ cơ sở kinh doanh dịch vụ Karaoke là ông Bùi Minh P.

- Đối với số tiền thu lợi bất chính: Bị cáo A thừa nhận đã thu lợi số tiền 750.000 đồng từ việc cho các bị cáo thuê địa điểm sử dụng ma túy, số tiền này bị cáo đã tiều dùng cá nhân hết. Xét đây là tiền thu lợi bất chính từ hành vi phạm tội mà có nên cần truy thu nộp Ngân sách Nhà nước.

[7] Đối với hành vi sử dụng ma túy của Ngô Hồng T2 tại Phòng Vip 5 quán Karaoke R. Xét T2 chỉ tham gia sử dụng ma túy với các bị cáo và không biết ngoài số ma túy đã sử dụng các bị cáo còn tàng trữ, cất giấu ma túy nơi khác, nên T2 không phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của các bị cáo. Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Ngô Hồng T2 thì ngày 05/01/2021 đã bị Công an thị xã Bến Cát xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 750.000 đồng. Việc không khởi tố hình sự và xử phạt vi phạm hành chính đối với T2 là đúng quy định.

Đối với đối tượng tên Khoa (đã bán ma túy cho Nguyễn Văn Đ.E), Vi và Phúc (là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy) đều không rõ nhân thân, lai lịch, hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra đang tiếp tục điều tra làm rõ, khi xác định được sẽ xử lý sau.

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn Đ.E, Huỳnh Trí K, Nguyễn Văn T và Giang Thị Kim C phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Tuyên bố các bị cáo Phạm Ngọc A và Trần Thanh T1 phạm tội: “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”.

2. Về điều luật áp dụng và hình phạt.

- Áp dụng điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ.E 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 07/12/2020.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Giang Thị Kim C 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 07/12/2020.

- Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Huỳnh Trí K và Nguyễn Văn T.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Trí K 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 07/12/2020.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 07/12/2020.

- Áp dụng điểm b, d khoản 2 Điều 256; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Phạm Ngọc A 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 22/6/2021, được khấu trừ thời hạn bị cáo đã bị tạm giam trước đó từ ngày 07/12/2020 đến ngày 09/02/2021.

- Áp dụng điểm b, d khoản 2 Điều 256; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Trần Thanh T1 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/12/2020.

3. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tuyên:

* Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (Một) đĩa sứ;

- 01 (Một) card đựng sim Viettel có mã số 8984 0480 0006 0485 668;

- 01 sim số 0705228913;

- Khối lượng 3,0279 gam MDMA, 1,5788 gam Ketamine sau giám định được Phòng Kĩ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương niêm phong, hoàn lại sau giám định, đựng trong các bì thư cụ thể:

+ 01 bì thư niêm phong số 768/PC09(M1) có dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong chứa 2,9338 gam MDMA;

+ 01 bì thư niêm phong số 768/PC09(M2) có dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong chứa 0,1056 gam Ketamine;

+ 01 bì thư niêm phong số 768/PC09(M3) có dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong chứa 0,6434 gam Ketamine;

+ 01 bì thư niêm phong số 768/PC09(M4) có dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong chứa 0,0941 gam MDMA;

+ 01 bì thư niêm phong số 768/PC09(M5) có dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong chứa 0,8133 gam Ketamine;

+ 01 bì thư niêm phong số 768/PC09(M6-2) có dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong chứa 0,0164 gam Ketamine;

* Tịch thu nộp ngân sách nhà nước:

- 01 điện thoại di động hiệu OPPO (tình trạng: bị vỡ màn hình, không kiểm tra được số IMEI của máy);

- 01 tờ tiền mệnh giá 5.000 đồng và 01 ống hút được quấn bằng tờ tiền có mệnh giá 20.000 đồng.

* Tuyên trả các tài sản sau cho chủ sở hữu hợp pháp là Cơ sở kinh doanh dịch vụ Karaoke R (do ông Bùi Minh P làm chủ) gồm:

- 01 đèn quay màu không rõ nhãn hiệu (không dây dẫn, không kiểm tra được tình trạng bên trong, tại thời điểm giao nhận đèn không hoạt động được) - 03 loa màu đen nhãn hiệu GT (không dây dẫn, không kiểm tra được tình trạng bên trong, tại thời điểm giao nhận loa không hoạt động được);

- 01 máy phun khói màu trắng đen, nhãn hiệu FOGGER (không dây dẫn, không kiểm tra được tình trạng bên trong, tại thời điểm giao nhận máy không hoạt động được);

- 02 loa màu đen, không rõ nhãn hiệu (không dây dẫn, không kiểm tra được tình trạng bên trong, tại thời điểm giao nhận loa không hoạt động được);

- 01 đèn màu hiệu Laser Ghow System (không dây dẫn, không kiểm tra được tình trạng bên trong, tại thời điểm giao nhận đèn không hoạt động được);

- 03 đèn Cếu sáng màu đen, hiệu Beam (không dây dẫn, không kiểm tra được tình trạng bên trong, tại thời điểm giao nhận đèn không hoạt động được);

- 01 đèn Cếu sáng không có nhãn hiệu (không dây dẫn, không kiểm tra được tình trạng bên trong, tại thời điểm giao nhận đèn không hoạt động được);

- 01 máy lưu trữ dữ liệu phát nhạc hiệu Kara màu bạc đen (không dây dẫn, không kiểm tra được tình trạng bên trong, tại thời điểm giao nhận máy không hoạt động được);

- 01 Tivi 42 inch màu đen, nhãn hiệu Panasonic (model TH-P42X10S, không dây dẫn, không kiểm tra được tình trạng bên trong, tại thời điểm giao nhận máy không hoạt động được);

- 01 Đầu CBU nhãn hiệu Dell màu đen (không dây dẫn, không kiểm tra được tình trạng bên trong, tại thời điểm giao nhận máy không hoạt động được);

- 01 màn hình máy vi tính nhãn hiệu Dell màu đen (không dây dẫn, không kiểm tra được tình trạng bên trong, tại thời điểm giao nhận máy không hoạt động được);

- 01 máy in hóa đơn màu đen nhãn hiệu Sewoo (không dây dẫn, không kiểm tra được tình trạng bên trong, tại thời điểm giao nhận máy không hoạt động được);

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/6/2021 giữa Công an thị xã Bến Cát với C cục Thi hành án dân sự thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương).

* Về biện pháp tư pháp: Buộc bị cáo Phạm Ngọc A phải nộp lại số tiền thu lợi bất chính là 750.000 đồng để sung vào ngân sách Nhà nước.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 và Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc các bị cáo Nguyễn Văn Đ.E, Giang Thị Kim C, Huỳnh Trí K, Nguyễn Văn T, Phạm Ngọc A và Trần Thanh T1, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

- Các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 105/2021/HSST ngày 30/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:105/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về