Bản án 105/2020/HS-ST ngày 14/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 105/2020/HS-ST NGÀY 14/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện M, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 105/2020/TLST-HS ngày 25 tháng 6 năm 2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 99/2020/QĐXXST-HS ngày 01/7/2020, đối với bị cáo:

Trịnh Quốc R - Giới tính: Nam; sinh năm 1979 tại: Hà Nội; Nơi cư trú: Số 13/448/195 E, thị trấn W, huyện M, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Trịnh Văn K và bà: Vũ Thị D; Vợ: Hoàng Thị H1, Có 02 con sinh năm 2006 và năm 2012; Tiền án - tiền sự: Theo danh chỉ bản số 87 ngày 14-01- 2020 do Công an huyện M lập và lý lịch bị can thì bị cáo có 02 tiền án và 01 tiền sự:

- Ngày 14-10-2003, Công an thị trấn W - Công an huyện M xử lý hành chính (phạt cảnh cáo) về hành vi trộm cắp tài sản;

- Án số 28/HSST ngày 28-5-2004, Tòa án nhân dân huyện M, thành phố Hà Nội xử phạt 10 tháng tù về tội: Trộm cắp tài sản.

- Án số 38/2017/HSST ngày 12-12-2017, Tòa án nhân dân thị xã M xử phạt 01 năm 08 tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng, ngày 15-11- 2018 chấp hành xong hình phạt.

Bị cáo bị bắt khẩn cấp, tạm giữ từ ngày 11-01-2020 đến ngày 20-01-2020 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số II - Công an thành phố Hà Nội; (Có mặt).

Những người có quyền và nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Nguyễn Thị S, sinh năm 1993 (Có mặt).

Trú tại: Thôn B, xã X, huyện V, thành phố Hà Nội.

2. Anh Bùi Huy Q, sinh năm 1985 (Vắng mặt).

Trú tại: Thôn L, xã Z, huyện M, thành phố Hà Nội.

3. Anh Lê D, sinh năm 1980 (Vắng mặt).

Trú tại: Tổ dân phố S1, thị trấn V1, huyện M, thành phố Hà Nội.

4. Bà Hoàng Thị H1, sinh năm 1982 (Vắng mặt).

Trú tại: Cụm 20, tổ P1, thị trấn W, huyện M, thành phố Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 20 phút ngày 10-01-2020, tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an huyện M làm nhiệm vụ tại khu vực trạm bơm B1, huyện M, thành phố Hà Nội phát hiện Bùi Huy Q và Lê D có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Qua kiểm tra phát hiện ở dưới đất cạnh chân của Q và D có 01 túi nilông màu trắng bên trong có dính tinh thể màu trắng; 01 mảnh giấy bạc màu trắng bị đốt cháy có dính tinh thể màu trắng; 01 bật lửa gas màu đỏ, Q và D đều khai nhận vừa sử dụng ma túy. Nguồn gốc ma túy là vào khoảng 23 giờ ngày 10-01-2020, Bùi Huy Q đến khu vực đường đôi thuộc thị trấn W, M, Hà Nội mua của Trịnh Quốc R, nhà ở số 13/195/448 E, thị trấn W, huyện M, thành phố Hà Nội, gồm: 01 đoạn ống hút bên trong có 01 túi nilông chứa ma túy đá và 02 viên ma túy ngựa giá 400.000 đồng.

Vật chứng thu giữ của Bùi Huy Q: 01 túi nilông màu trắng kích thước khoảng 2,5 x 2cm bên trong có dính tinh thể màu trắng và 01 mảnh giấy bạc màu trắng kích thước khoảng 5 x 4cm bị đốt cháy có dính tinh thể màu trắng, 01 bật lửa gas màu đỏ.

Tại Kết luận giám định số 646/KLGĐ-PC09 ngày 17-01-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, kết luận: 01 túi nilông và 01 mảnh giấy bạc màu trắng bị đốt cháy (thu giữ của Bùi Huy Q) đều có dính ma túy loại Methamphetamine.

Khoảng 00 giờ 05 phút ngày 11-01-2020, tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an huyện M làm nhiệm vụ tại khu vực đường liên xã thuộc R3, B1, huyện M, Hà Nội kiểm tra Trịnh Quốc R đi xe máy điện không biển kiểm soát và Nguyễn Thị S đi xe Honda SH BKS: 99F1-407.09. Quá trình kiểm tra R và S, cơ quan điều tra đã thu giữ:

- Thu giữ của Trịnh Quốc R: 01 xe máy điện màu xanh, sườn xe có chữ Koma SV, không biển kiểm soát, trong cốp xe có số tiền 20.000.000đ; 01 viên nén hình tròn màu trắng trong vỉ, 01 điện thoại nhãn hiệu VIVO bên trong lắp sim liên lạc số 0869799925, số tiền 4.000.000đ trong túi quần R đang mặc.

- Thu giữ của Nguyễn Thị S: 01 điện thoại Iphone 7 Plus màu vàng, máy cũ đã qua sử dụng, lắp sim liên lạc 0355556621; 01 ví da màu đen bên trong có số tiền 1.500.000đ; 01 xe máy nhãn hiệu Honda SH màu xanh đen, BKS 99F1- 407.09, xe cũ đã qua sử dụng.

Tại Kết luận giám định số 647/KLGĐ-PC09 ngày 17-01-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: 01 viên nén hình tròn màu trắng không tìm thấy chất ma túy, khối lượng 0,379 gam.

Cùng ngày 11-01-2020, Cơ quan điều tra Công an huyện M đã khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trịnh Quốc R và Nguyễn Thị S ở trọ tại R3, B1, huyện M, thành phố Hà Nội, phát hiện thu giữ: 01 túi nilông màu trắng kích thước 7 x 10cm bên trong có chứa 01 gói nilông màu trắng có chứa chất tinh thể màu trắng; 01 túi nilông kích thước khoảng 1 x 1cm bên trong có dính tinh thể màu trắng; 01 cân tiểu ly màu đen trên mặt có dính tinh thể màu trắng; 01 túi nilông màu trắng kích thước 7 x 8cm bên trong có chứa nhiều túi nilông nhỏ màu trắng, không đếm số lượng; 25 đoạn ống hút nhựa nhiều màu khác nhau được hàn kín một đầu; 01 giấy phép lái xe số 381186016909 mang tên Nguyễn Thị S; 01 Giấy chứng nhận đăng kí xe mô tô số 028875, tên chủ xe Nguyễn Văn Đảm, xe BKS 99F1-407.09; 01 giấy hóa đơn bán hàng của cửa hàng xe điện Bảo Ngọc; 01 giấy tờ hợp đồng thuê phòng trọ, bên thuê Nguyễn Thị S; 01 túi nilông kích thước 25 x 25cm, túi màu trắng bên trong có chứa nhiều túi nilông nhỏ màu trắng; các đoạn ống hút nhựa nhiều màu sắc khác nhau; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, bàn phím bấm màu đen, viền màu vàng; 01 điện thoại di động có chữ GOLY bàn phím bấm, vỏ máy màu vàng; 01 điện thoại di động màu đen mặt sau có chữ Iphone, mặt sau kính và camera bị vỡ; 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng mặt sau vỏ màu xám có chữ Iphone; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia vỏ màu xanh bàn phím bấm màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, bàn phím bấm.

Tại Kết luận giám định số 648/KLGĐ-PC09 ngày 17-01-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông không phải là ma túy, khối lượng 32,098 gam; 01 túi nilông và 01 cân điện tử màu đen và 01 túi nilông (bên trong túi nilông kích thước (7 x 8cm) đều có dính ma túy loại Methamphetamine; 25 đoạn ống hút nhựa hàn kín một đầu, 16 túi nilông (bên trong túi nilông kích thước (7 x 8cm), 100 túi nilông và 76 đoạn ống hút nhựa đều không dính ma túy.

Ngày 11-01-2020, Cơ quan điều tra Công an huyện M khám xét khẩn cấp tại Tổ Yên Tân, thị trấn W, huyện M, thành phố Hà Nội là chỗ ở của Trịnh Quốc R sống cùng với vợ là Hoàng Thị H1 phát hiện thu giữ: 01 găng tay nilông màu trắng bên trong có 01 túi nilông màu trắng kích thước khoảng 2,5 x 2,5cm bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng và 01 đoạn ống hút nhựa màu đen được hàn kín 2 đầu bên trong có chứa 01 viên nén hình tròn màu hồng; 01 túi nilông màu trắng kích thước khoảng 2 x 2cm bên trong dính tinh thể màu trắng; 01 túi nilông màu trắng kích thước 1,5 x 1,5cm bên trong dính tinh thể màu trắng; 01 đoạn ống hút nhựa màu đen được hàn kín 2 đầu bên trong có chứa 01 viên nén hình tròn màu hồng; 03 mảnh giấy bạc màu trắng trên các mảnh giấy đều có dính chất màu đen; 03 đoạn ống hút nhựa màu đen được hàn kín một đầu.

Tại Kết luận giám định số 648/KLGĐ-PC09 ngày 17-01-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận:

- 01 Găng tay nilông màu trắng bên trong có: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,459 gam; 01 viên nén màu hồng bên trong 01 đoạn ống hút nhựa màu đen là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,103 gam .

- 01 Viên nén màu hồng bên trong 01 đoạn ống hút nhựa màu đen là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,097 gam.

- 02 Túi nilông, 03 mảnh giấy bạc màu trắng và 03 đoạn ống hút nhựa màu đen đều có dính ma túy loại Methamphetamine.

Tổng khối lượng ma túy loại Methamphetamine là 0,659 gam Cơ quan điều tra Công an huyện M kiểm tra xe ô tô Huyndai i10, BKS 30E- 625.46 của Trịnh Quốc R được gửi tại một xưởng mộc ở R3, xã B1, huyện M, thành phố Hà Nội. Quá trình kiểm tra, R đã lấy 01 túi nilông màu trắng chứa chất tinh thể màu trắng là ma túy đá ở hộc giữa hai ghế lái và ghế phụ và giao nộp cho Cơ quan Công an.

Tại Kết luận giám định số 643/KLGĐ-PC09 ngày 17-01-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,462 gam.

Ngoài ra, cơ quan điều tra thu giữ của R gồm: Chiếc xe ô tô màu vàng, BKS 30E-625.46 nhãn hiệu Huyndai i10, SM G3LAFM460314, SK 51ABGM366690, xe đã qua sử dụng; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 606936 mang tên Vũ Thị Dung đối với xe ô tô BKS 30E-625.46; 01 Giấy chứng nhận kiểm định xe ô tô BKS 30E-625.46 số 9482978.

Tại cơ quan điều tra, Trịnh Quốc R khai nhận: R là đối tượng nghiện ma túy. Nguồn gốc số ma túy Cơ quan điều tra Công an huyện M thu giữ tại nhà của R ở tổ Yên Tân, thị trấn W, huyện M, thành phố Hà Nội là trước khi bị bắt khoảng 4-5 ngày, R mua của một người đàn ông (không rõ nhân thân) ở khu vực M, Bắc Ninh 01 túi nilông chứa tinh thể màu trắng là ma túy đá giá 200.000 đồng và 02 viên nén hình tròn màu hồng là ma túy hồng phiến để trong 02 đoạn ống hút nhựa màu đen bịt kín hai đầu với giá 50.000 đồng/01 viên. R mua số ma túy trên với mục đích để sử dụng. Một túi ma túy đá mà cơ quan điều tra thu giữ trong xe ô tô Huyndai i10, BKS 30E-625.46, R khai nhận nguồn gốc số ma túy này là R mua với giá 200.000 đồng của một người đàn ông khác (không rõ nhân thân) tại M, Bắc Ninh, mục đích để sử dụng cho bản thân.

Quá trình điều tra, R không thừa nhận ngày 10-01-2020, R bán ma túy cho Bùi Huy Q theo như Q khai. Ngoài lời khai của Q không có tài liệu, chứng cứ nào khác do vậy không đủ căn cứ để xử lý R về hành vi mua bán trái phép chất ma túy.

Tại bản cáo trạng số: 84/CT-VKSGL ngày 16-6-2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện M đã truy tố bị cáo Trịnh Quốc R về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện Kiểm sát đã truy tố.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện M giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay thấy rằng: Hành vi của bị cáo Trịnh Quốc R đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

- Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

- Về hình phạt: Đề nghị xử phạt bị cáo R mức án từ 28 đến 32 tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bắt 11-01-2020.

- Về hình phạt bổ sung: Không - Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) phong bì niêm phong có chữ ký của Bùi Huy Q, cán bộ đội CSĐTTP về ma túy - Công an huyện M, Giám định viên. Bên trong phong bì có 01 túi ni-lông màu trắng kích thước khoản (2,5 x 2)cm; 01 (một) mảnh giấy bạc màu trắng kích thước khoảng (5 x 4)cm bị đốt cháy đều dính ma túy loại Methamphetamine;

+ 01 (một) phong bì niêm phong có chữ ký của Trịnh Quốc R, cán bộ đội CSĐTTP về ma túy - Công an huyện M, Giám định viên. Bên trong phong bì có:

01 viên nén hình tròn màu trắng không tìm thấy chất ma túy, khối lượng 0,225 gam (đã trích thu mẫu giám định 0,154 gam);

+ 01 (một) phong bì niêm phong có chữ ký của Trịnh Quốc R, cán bộ đội CSĐTTP về ma túy - Công an huyện M, Giám định viên. Bên trong phong bì có: Tinh thể màu trắng không phải là ma túy bên trong 01 túi ni lông có khối lượng 28,043 gam (đã trích mẫu giám định 4,055 gam) + 01 (một) phong bì niêm phong có chữ ký của Trịnh Quốc R, cán bộ đội CSĐTTP về ma túy - Công an huyện M, Giám định viên. Bên trong phong bì có:

01 cân điện tử màu đen và 01 túi ni lông (bên trong túi ni lông kích thước (7 x 8)cm) đều có dính ma túy loại Methamphetamine;

+ 25 đoạn ống hút nhựa hàn kín một đầu, 16 túi ni lông (bên trong túi ni lông kích thước (7 x 8)cm), 100 túi ni lông và 76 đoạn ống nhựa đều dính ma túy được niêm phong lại vào 01 túi ni lông đỏ, dán giấy niêm phong bên ngoài có chữ ký của giám định viên, Trịnh Quốc R, Nguyễn Thị S và cán bộ Trịnh Quốc Đạt.

+ 100 túi ni lông đều không dính chất ma túy được niêm phong lại vào 01 túi ni lông trắng, dán giấy niêm phong bên ngoài có chữ ký của giám định viên, Trịnh Quốc R, Nguyễn Thị S và cán bộ Trịnh Quốc Đạt.

+ 01 (một) phong bì niêm phong có chữ ký của Trịnh Quốc R, cán bộ đội CSĐTTP về ma túy - Công an huyện M, Giám định viên. Bên trong phong bì có:

01 găng tay ni lông màu trắng bên trong có: 01 túi ni lông chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,426 gam (đã trích mẫu giám định 0,033 gam); 01 viên nén hình tròn màu hồng bên trong 01 đoạn ống hút nhựa màu đen là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,060 gam (đã trích mẫu giám định 0,043 gam); 01 viên nén hình tròn màu hồng bên trong có 01 đoạn ống hút nhựa màu đen là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,068 gam (đã trích mẫu giám định 0,029 gam); 02 túi ni lông, 03 mảnh giấy bạc và 03 đoạn ống hút nhựa màu đen đều có dính ma túy loại Methamphetamine.

+ 01 (một) phong bì niêm phong có chữ ký của Trịnh Quốc R, cán bộ đội CSĐTTP về ma túy - Công an huyện M, Giám định viên. Bên trong phong bì có:

01 túi ni lông chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,365 gam (đã trích mẫu giám định 0,097 gam);

+ 01 (một) bật lửa gas màu đỏ thu giữ của Bùi Huy Q;

+ Đề nghị trả lại cho bị cáo Trịnh Quốc R: 4.000.000đ (bốn triệu đồng) thu giữ trong người của Trịnh Quốc R; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vivo, màu xanh, lắp sim liên lạc, máy cũng đã qua sử dụng thu giữ của R; 06 (sáu) điện thoại di động cũ thu giữ của R (có niêm phong riêng) do không liên quan đến hành vi phạm tội.

Nói lời sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn nhận tội và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, bản Kết luận định giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện M đã truy tố. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 11-01-2020, tại tổ Yên Tân, thị trấn W, huyện M, thành phố Hà Nội, bị cáo Trịnh Quốc R có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy Methamphetamine có khối lượng 0,659 gam và tại R3, xã B1, huyện M, thành phố Hà Nội, bị cáo R tàng trữ trái phép chất ma túy Methamphetamine có khối lượng 0,462 gam ở trong xe ô tô Huyndai i10, BKS 30E-625.46 với mục đích để sử dụng thì bị cơ quan Công an kiểm tra thu giữ. Tổng khối lượng ma tuý Trịnh Quốc R tàng trữ để sử dụng là 1,121 gam Methamphetamine.

[3] Hành vi của bị cáo Trịnh Quốc R đã có đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[4] Viện Kiểm sát nhân dân huyện M đề nghị truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

[5] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo đã cố ý trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy được Bộ luật Hình sự bảo vệ. Do vậy, cần phải nghiêm trị đối với bị cáo.

- Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

[6] Về tình tiết tăng nặng: Nhân thân của bị cáo R có 02 tiền án và 01 tiền sự: Ngày 14-10-2003, Công an thị trấn W - Công an huyện M xử lý hành chính (phạt cảnh cáo) về hành vi trộm cắp tài sản; án số 28/HSST ngày 28-5-2004, Tòa án nhân dân huyện M, thành phố Hà Nội xử phạt 10 tháng tù về tội: Trộm cắp tài sản. Tiền án và tiền sự trên của bị cáo đã đương nhiên được xóa theo luật định.

Án số 38/2017/HSST ngày 12-12-2017, Tòa án nhân dân thị xã M xử phạt 01 năm 08 tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng, ngày 15-11-2018 chấp hành xong hình phạt. Tiền án này của bị cáo chưa được xóa nên bị cáo phạm tội lần này là tái phạm, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[8] Xét tính chất và mức độ hành vi phạm tội cùng nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần phải xử phạt bị cáo một mức án tù trong khung hình phạt nhằm cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới có đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng xem xét giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo vì bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đã nhận định ở trên.

[9] Đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát về nhân thân của bị cáo, về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm, về mức hình phạt đối với bị cáo về cơ bản là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử. Tuy nhiên, mức hình phạt đề nghị với bị cáo là có phần nghiêm khắc.

- Về hình phạt bổ sung:

[10] Xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là có căn cứ.

- Về xử lý vật chứng:

[11] Thu giữ các vật chứng liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần cho tịch thu tiêu hủy gồm:

+ 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Bùi Huy Q, cán bộ đội CSĐTTP về ma túy - Công an huyện M, Giám định viên. Bên trong phong bì có 01 túi ni- lông màu trắng kích thước khoản (2,5 x 2)cm; 01 mảnh giấy bạc màu trắng kích thước khoảng (5 x 4)cm bị đốt cháy đều dính ma túy loại Methamphetamine;

+ 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Trịnh Quốc R, cán bộ đội CSĐTTP về ma túy - Công an huyện M, Giám định viên. Bên trong phong bì có:

01 viên nén hình tròn màu trắng không tìm thấy chất ma túy, khối lượng 0,225 gam (đã trích thu mẫu giám định 0,154 gam);

+ 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Trịnh Quốc R, cán bộ đội CSĐTTP về ma túy - Công an huyện M, Giám định viên. Bên trong phong bì có: Tinh thể màu trắng không phải là ma túy bên trong 01 túi ni lông có khối lượng 28,043 gam (đã trích mẫu giám định 4,055 gam);

+ 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Trịnh Quốc R, cán bộ đội CSĐTTP về ma túy - Công an huyện M, Giám định viên. Bên trong phong bì có:

01 cân điện tử màu đen và 01 túi ni lông (bên trong túi ni lông kích thước (7 x 8)cm) đều có dính ma túy loại Methamphetamine;

+ 25 đoạn ống hút nhựa hàn kín một đầu, 16 túi ni lông (bên trong túi ni lông kích thước (7 x 8)cm), 100 túi ni lông và 76 đoạn ống nhựa đều dính ma túy được niêm phong lại vào 01 túi ni lông đỏ, dán giấy niêm phong bên ngoài có chữ ký của giám định viên, Trịnh Quốc R, Nguyễn Thị S và cán bộ Trịnh Quốc Đạt;

+ 100 túi ni lông đều không dính chất ma túy được niêm phong lại vào 01 túi ni lông trắng, dán giấy niêm phong bên ngoài có chữ ký của giám định viên, Trịnh Quốc R, Nguyễn Thị S và cán bộ Trịnh Quốc Đạt;

+ 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Trịnh Quốc R, cán bộ đội CSĐTTP về ma túy - Công an huyện M, Giám định viên. Bên trong phong bì có:

01 găng tay ni lông màu trắng bên trong có: 01 túi ni lông chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,426 gam (đã trích mẫu giám định 0,033 gam); 01 viên nén hình tròn màu hồng bên trong 01 đoạn ống hút nhựa màu đen là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,060 gam (đã trích mẫu giám định 0,043 gam); 01 viên nén hình tròn màu hồng bên trong có 01 đoạn ống hút nhựa màu đen là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,068 gam (đã trích mẫu giám định 0,029 gam); 02 túi ni lông, 03 mảnh giấy bạc và 03 đoạn ống hút nhựa màu đen đều có dính ma túy loại Methamphetamine.

+ 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Trịnh Quốc R, cán bộ đội CSĐTTP về ma túy - Công an huyện M, Giám định viên. Bên trong phong bì có:

01 túi ni lông chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,365 gam (đã trích mẫu giám định 0,097 gam);

+ 01 bật lửa gas màu đỏ thu giữ của Bùi Huy Q.

[12] Thu giữ của bị cáo Trịnh Quốc R: 4.000.000đ (bốn triệu đồng) thu giữ trong người của Trịnh Quốc R; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo, màu xanh, lắp sim liên lạc, máy cũng đã qua sử dụng thu giữ của R; 06 điện thoại di động cũ thu giữ của R (có niêm phong riêng) gồm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, bàn phím bấm màu đen, viền màu vàng; 01 điện thoại di động có chữ GOLY bàn phím bấm, vỏ máy màu vàng; 01 điện thoại di động màu đen mặt sau có chữ Iphone, mặt sau kính và camera bị vỡ; 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng mặt sau vỏ màu xám có chữ Iphone; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia vỏ màu xanh bàn phím bấm màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, bàn phím bấm không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo là có căn cứ.

- Về các vấn đề khác:

[13] Đối với Bùi Huy Q, Lê D, Nguyễn Thị S: Quá trình điều tra xác định, Q, D và S không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo R. Căn cứ kết quả xét nghiệm đối với Q, D, và S dương tính với chất ma túy. Do vậy, Công an huyện M đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với Bùi Huy Q, Lê D và Nguyễn Thị S là có căn cứ. Việc R cất giấu ma túy tại nhà ở tổ Yên Tân, thị trấn W, huyện M, thành phố Hà Nội thì chị Hoàng Thị H1 (là vợ của R) không biết.

[14] Đối với chiếc xe ô tô màu vàng, BKS: 30E-625.46 nhãn hiệu Huyndai i10, SM G3LAFM460314, SK 51ABGM366690, đã qua sử dụng; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 606936 mang tên Vũ Thị D đối với xe ô tô BKS 30E- 625.46; 01 giấy chứng nhận kiểm định xe ô tô BKS 30E-625.46 số 9482978 thu giữ của Trịnh Quốc R. Qua xác minh, chủ sở hữu chiếc xe ô tô trên là của bà Vũ Thị Dung là mẹ của R. Bà Dung cho R mượn xe ô tô để sử dụng, không biết việc R cất giữ ma túy trên xe ô tô. Ngày 05-3-2020, Cơ quan điều tra đã trả chiếc xe ô tô BKS: 30E-625.46 nhãn hiệu Huyndai i10 và các giấy tờ liên quan trên cho bà Dung là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

[15] Đối với chiếc điệu thoại di động Iphone 7 màu vàng, có sim liên lạc, đã qua sử dụng; 01 ví da màu đen bên trong có số tiền 1.500.000 đồng; 01 xe máy Honda SH màu xanh đen BKS: 99F1-407.09, SM G3LAFM460314, SK 51ABGM366690 đã qua sử dụng thu giữ của Nguyễn Thị S; 01 xe máy điện màu xanh, sườn xe có chữ Koma SV, không biển kiểm soát và số tiền 20.000.000 đồng trong cốp xe máy điện thu giữ của R. Qua điều tra xác minh, số đồ vật, tài sản trên là thuộc sở hữu của chị Nguyễn Thị S, không liên quan đến hành vi phạm tội của R. Ngày 15-4-2020, Cơ quan điều tra Công an huyện M đã trả số tài sản và số tiền trên cho chị Nguyễn Thị S là có căn cứ.

[16] Đối với những người bán ma túy cho R do không xác định được nhân thân nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

[17] Đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát về hình phạt bổ sung, về xử lý vật chứng và về các vấn đề khác là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

- Về án phí:

[18] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

- Về quyền kháng cáo:

[19] Bị cáo và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Trịnh Quốc R 24 (Hai mươi bốn) tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 11-01-2020.

2. Về hình phạt bổ sung: Không 3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Bùi Huy Q, cán bộ đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an huyện M, Giám định viên. Bên trong phong bì có 01 túi ni-lông màu trắng kích thước khoản (2,5 x 2)cm; 01 mảnh giấy bạc màu trắng kích thước khoảng (5 x 4)cm bị đốt cháy đều dính ma túy loại Methamphetamine;

+ 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Trịnh Quốc R, cán bộ đội CSĐTTP về ma túy - Công an huyện M, Giám định viên. Bên trong phong bì có:

01 viên nén hình tròn màu trắng không tìm thấy chất ma túy, khối lượng 0,225 gam (đã trích thu mẫu giám định 0,154 gam);

+ 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Trịnh Quốc R, cán bộ đội CSĐTTP về ma túy - Công an huyện M, Giám định viên. Bên trong phong bì có: Tinh thể màu trắng không phải là ma túy bên trong 01 túi ni lông có khối lượng 28,043 gam (đã trích mẫu giám định 4,055 gam);

+ 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Trịnh Quốc R, cán bộ đội CSĐTTP về ma túy - Công an huyện M, Giám định viên. Bên trong phong bì có:

01 cân điện tử màu đen và 01 túi ni lông (bên trong túi ni lông kích thước (7 x 8)cm) đều có dính ma túy loại Methamphetamine;

+ 25 đoạn ống hút nhựa hàn kín một đầu, 16 túi ni lông (bên trong túi ni lông kích thước (7 x 8)cm), 100 túi ni lông và 76 đoạn ống nhựa đều dính ma túy được niêm phong lại vào 01 túi ni lông đỏ, dán giấy niêm phong bên ngoài có chữ ký của giám định viên, Trịnh Quốc R, Nguyễn Thị S và cán bộ Trịnh Quốc Đạt;

+ 100 túi ni lông đều không dính chất ma túy được niêm phong lại vào 01 túi ni lông trắng, dán giấy niêm phong bên ngoài có chữ ký của giám định viên, Trịnh Quốc R, Nguyễn Thị S và cán bộ Trịnh Quốc Đạt;

+ 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Trịnh Quốc R, cán bộ đội CSĐTTP về ma túy - Công an huyện M, Giám định viên. Bên trong phong bì có:

01 găng tay ni lông màu trắng bên trong có: 01 túi ni lông chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,426 gam (đã trích mẫu giám định 0,033 gam); 01 viên nén hình tròn màu hồng bên trong 01 đoạn ống hút nhựa màu đen là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,060 gam (đã trích mẫu giám định 0,043 gam); 01 viên nén hình tròn màu hồng bên trong có 01 đoạn ống hút nhựa màu đen là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,068 gam (đã trích mẫu giám định 0,029 gam); 02 túi ni lông, 03 mảnh giấy bạc và 03 đoạn ống hút nhựa màu đen đều có dính ma túy loại Methamphetamine;

+ 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Trịnh Quốc R, cán bộ đội CSĐTTP về ma túy - Công an huyện M, Giám định viên. Bên trong phong bì có:

01 túi ni lông chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,365 gam (đã trích mẫu giám định 0,097 gam);

+ 01 bật lửa gas màu đỏ thu giữ của Bùi Huy Q.

- Trả lại cho bị cáo Trịnh Quốc R: Số tiền 4.000.000đ (Bốn triệu đồng); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo, màu xanh, lắp sim liên lạc, máy cũng đã qua sử dụng; 06 điện thoại di động cũ (có niêm phong riêng) gồm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, bàn phím bấm màu đen, viền màu vàng; 01 điện thoại di động có chữ GOLY bàn phím bấm, vỏ máy màu vàng; 01 điện thoại di động màu đen mặt sau có chữ Iphone, mặt sau kính và camera bị vỡ; 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng mặt sau vỏ màu xám có chữ Iphone; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia vỏ màu xanh bàn phím bấm màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, bàn phím.

(Hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện M theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 02-7-2020 và BL thu tiền số 0001905 ngày 13-7-2020).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Trịnh Quốc R phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo và chị S là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Những người có quyền và nghĩa vụ liên quan có quyền làm đơn kháng cáo bản án về những vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền lợi của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 105/2020/HS-ST ngày 14/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:105/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mê Linh - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về