Bản án 105/2018/HS-ST ngày 03/05/2018 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN TP. NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HOÀ

BẢN ÁN 105/2018/HS-ST NGÀY 03/05/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 102/2018/TLST-HS ngày 29 tháng 3 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử 109/2018/QĐXXST-HS ngày 19/4/2018 đối với bị cáo:

Phạm Đỗ Hữu Đ - Sinh năm 1991, tại Khánh Hòa. Nơi cư trú: Thôn P, xã P, Nha Trang, Khánh Hòa; Nghề nghiệp: Làm biển; Trình độ học vấn: 09/12; Con ông: Phạm Văn H và bà Đỗ Thị Ánh H; Vợ: Lê Thị Kiều N; Con: 01 con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 17/3/2010 bị Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang xử phạt 09 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22/12/2017 đến ngày 28/12/2017, được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Anh T – sinh năm 1983

Chỗ ở: 546/5 L, P, Nha Trang, Khánh Hòa. Vắng mặt.

2. Bà Phạm Đỗ Ánh T – sinh năm 1995

Chỗ ở: 11 S, V, Nha Trang, Khánh Hòa. Vắng mặt

3. Bà Trần Thị Đức M – sinh năm 1976

Chỗ ở: 28, V, Nha Trang, Khánh Hòa. Vắng mặt

4. Bà Trương Ngọc Thảo Q – sinh năm 1992

Chỗ ở: 26/8 Đ, P, Nha Trang, Khánh Hòa. Vắng mặt

5. Ông Nguyễn Tiến N – sinh năm 1977

Chỗ ở: 15/17 H, Nha Trang, Khánh Hòa. Vắng mặt

Người làm chứng:

Ông Nguyễn Thanh M – sinh năm 1980

Chỗ ở: Thôn T, P, Nha Trang, Khánh Hòa. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 00 phút, ngày 22/12/2017, trong khi đi tuần tra tại khu vực trước cổng trường tiểu học P I, đường B, P, Nha Trang, tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy-Công an thành phố Nha Trang đã phát hiện bắt giữ quả tang Phạm Đỗ Hức Đ đang bán cho Nguyễn Anh T 01 gói giấy màu vàng bên trong có 01 bịch nilon hàn kín có chứa chất tinh thể màu trắng có trọng lượng 0,3628g (ký hiệu A) với giá 500.000 đồng. Tổ công tác thu giữ trên tay Thư một gói giấy màu vàng, thu giữ trên tay Đ 500.000 đồng và đưa cả hai về trụ sở làm việc.

Tại cơ quan điều tra, T và Đ khai nhận: Khoảng 13 giờ 20 phút, ngày 22/12/2017, T gọi điện vào số máy 0935858578 của Chì (chưa xác định được lai lịch) hỏi mua 01 bịch ma túy đá với giá 500.000 đồng, Chì đồng ý và hẹn đến khu vực cổng trường tiểu học P I sẽ có người của C giao ma túy. Sau đó, tại quán game ở khu vực đường H, N, Nha Trang, có C, T (bạn gái của C) và Phạm Đỗ Hữu Đ, C đưa ma túy cho Đ nhờ cầm đến địa điểm đã hẹn với T và dặn Đ ném gói giấy chứa chất ma túy xuống đất, khi T đưa tiền thì chỉ chỗ vứt ma túy cho T biết, Đ đồng ý và mang ma túy đến cổng trường tiểu học P I gặp T, T đưa cho Đ 500.000 đồng, Đ chỉ chỗ vứt ma túy cho T lấy thì bị Công an thành phố Nha Trang bắt quả tang.

Tại bản kết luận giám định số 55 ngày 28/12/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Khánh Hòa xác định: Tinh thể trong mẫu ký hiệu A gửi giám định là ma túy, có trọng lượng (khối lượng) 0,3628g, là (loại) Methamphetamine.

Theo bản Cáo trạng số 105/KSĐT-XXSTHS ngày 27/3/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang đã truy tố bị cáo Phạm Đỗ Hữu Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1, 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 06 năm tù.

Về xử lý vật chứng và án phí hình sự: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đối với C, T hiện chưa xác định được lai lịch, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thành phố Nha Trang đang xác minh làm rõ, nếu có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

Đối với Nguyễn Anh T, do trọng lượng ma túy chưa đủ định lượng để xử lý hình sự theo quy định của pháp luật hiện hành nên không truy cứu trách nhiệm hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Đỗ Hữu Đ thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình theo như truy tố và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang. Bị cáo không có tranh luận, chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Quá trình tiến hành tố tụng của Cơ quan điều tra  Công  an thành phố Nha Trang và Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang đúng trình tự, thủ tục và đúng thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc kiến nghị về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

Tại phiên tòa, vắng mặt  người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Anh T, Nguyễn Tiến N, Phạm Đỗ Ánh T, Trần Thị Đức M và Trương Ngọc Thảo Q. Xét thấy việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử vụ án, căn cứ Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về nội dung vụ án:

Tại phiên toà, bị cáo Phạm Đỗ Hữu Đ đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu ở trên. Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, do đó có đủ cơ sở khẳng định bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang truy tố hành vi phạm tội của bị cáo Phạm Đỗ Hữu Đ về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, là nguyên nhân gây ra nhiều loại tội phạm cũng như các tệ nạn xã hội khác và làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội; bản thân bị cáo là người có nhân thân xấu: ngày 17/3/2010 bị Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang xử phạt 09 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo không lấy đó làm bài học cho mình mà còn tiếp tục phạm tội, thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Vì vậy, xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được áp dụng mức hình phạt thật nghiêm khắc và cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Ngoài ra, nhận thấy bị cáo là người đã thành niên, có nghề nghiệp và thu nhập ổn đinh nên cần thiết phải áp dụng hình phạt tiền bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự mới đảm bảo nguyên tắc xử lý tội phạm, đủ tác dụng đấu tranh và phòng chống tội phạm chung, đặc biệt là các loại tội phạm về ma túy.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay xét thấy bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải, nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo, sửa đổi thành người tốt.

[3] Về vật chứng của vụ án

+ 01 điện thoại di động hiệu Oppo, màu trắng, sử dụng số thuê bao 0932426723 của bị cáo Phạm Đỗ Hữu Đ là công cụ, phương tiện phạm tội nên tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

+ Số tiền 500.000 đồng là tiền do bị cáo phạm tội mà có, do đó, Hội đồng xét

xử xét thấy cần tịch thu sung quỹ Nhà nước theo quy định của pháp luật

[4] Về phần dân sự Tại phiên tòa hôm nay người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Anh T, bà Phạm Đỗ Ánh T, bà Trần Thị Đức M, bà Trương Ngọc Thảo Q, ông Nguyễn Tiến N vắng mặt nên Hội đồng xét xử tách ra thành vụ kiện dân sự khác khi các đương sự trên có đơn yêu cầu.

[5] Về án phí:Bị cáo Phạm Đỗ Hữu Đ phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo:Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Đỗ Hữu Đ phạm tội Mua bán trái phép chất ma tuý”.

- Áp dụng khoản 1, 5 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; áp dụng Điều 106, 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về “Mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án” đối với bị cáo Phạm Đỗ Hữu Đ.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Đỗ Hữu Đ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án nhưng được trừ vào thời hạn bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22/12/2017 đến ngày 28/12/2017. Phạt bổ sung bị cáo Phạm Đỗ Hữu Đ 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) sung quỹ Nhà nước.

2.Về vật chứng vụ án:

+ Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Oppo, màu trắng, sử dụng số thuê bao 0932426723 của bị cáo Phạm Đỗ Hữu Đ và số tiền 500.000 đồng.(Theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha Trang và Cơ quan Chi cục thi án dân sự thành phố Nha Trang ngày 05/4/2018 và Giấy nộp tiền vào Ngân sách nhà nước số 0002178 ngày 05/4/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha Trang và Kho bạc nhà nước thành phố Nha Trang).

3. Về phần dân sự: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là các ông bà Nguyễn Anh T, Phạm Đỗ Ánh T, Trần Thị Đức M, Trương Ngọc Thảo Q, Nguyễn Tiến N vắng mặt nên Hội đồng xét xử tách ra thành vụ kiện dân sự khác khi các đương sự trên có đơn yêu cầu.

4. Về án phí: Bị cáo Phạm Đỗ Hữu Đ phải nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 105/2018/HS-ST ngày 03/05/2018 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:105/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về