Bản án 50/2017/HSST ngày 28/11/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÀNG ĐỊNH TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 50/2017/HSST NGÀY 28/11/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh  Lạng  Sơn, xét  xử  sơ thẩm công khai  vụ  án  hình sự  thụ lý số: 42/2017/HSST ngày 07 tháng 11 năm 2017 đối với bị cáo:

Vũ Mạnh T, sinh ngày 29 tháng 8 năm 1984; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Thôn H, xã Y, huyện Y, tỉnh Nam Định; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 8/12; nghề nghiệp; thợ xây; con ông: Vũ Quang T1, sinh năm 1956 (đã chết) và bà Đào Thị H, sinh năm 1958; có vợ là Nguyễn Thị N, sinh năm 1995;  con Nguyễn Bảo A, sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/ 8/ 2017 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tràng Định đến nay. Có mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo Vũ Mạnh T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Hồi 07 giờ 45 phút, ngày 6/8/2017 tại khu vực đầu cầu xóm Đạo thuộc Khu I, thị trấn Thất Khê, huyện Tràng Định, tổ công tác Công an huyện Tràng Định bắt quả tang Vũ Mạnh T đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Kiểm tra thu giữ được 13 gói nhỏ được cắt từ ống hút bằng nhựa màu trắng có sọc xanh và đỏ bên trong chứa chất bột màu trắng; 01 xe mô tô không biển kiểm soát; 01 điện thoại di động; 01 thẻ căn cước công dân; 01 ví da màu nâu; số tiền 2.605.000 đồng tiền ngân hàng Nhà nước Việt Nam và 104 đồng (Nhân dân tệ) tiền Trung Quốc.

Tại bản kết luận giám định số: 309/KL-PC54, ngày 07/8/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng có trong 13 gói  thu giữ của Vũ Mạnh T đều là chất ma túy Heroine, có trọng lượng 0,284 gam.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Vũ Mạnh T khai nhận: Tháng 3/2017 bị cáo đi sang Trung Quốc làm thợ xây, do bản thân nghiện chất ma túy nên ngày 4/8/2017 mua một cục ma túy Heroine với một người đàn ông Trung Quốc tại Sòng Chó – Quảng Tây – Trung Quốc với giá 120 đồng Nhân dân tệ đem về chia được 20 gói nhỏ chất ma túy, bị cáo đã sử dụng 03 gói. Ngày 05/8/2017, bị cáo đi xe mô tô từ Trung Quốc sang mốc 979 thuộc địa phận xã Quốc Khánh về Việt Nam mang theo 17 gói chất ma túy mục đích đem về bán cho những người nghiện chất ma túy để kiếm lời. Khoảng 7 giờ ngày 06/8/2017, T đem theo số ma túy ra quán nước ở khu vực đầu cầu Xóm Đạo thuộc khu I thị trấn Thất Khê, huyện Tràng Định bán cho những người nghiện ma túy sau:

Khoảng 7 giờ 15 phút, ngày 06/8/2017 bị cáo bán cho Nông Văn T2 và Vũ Mạnh H1 01 gói ma túy với giá 100.000  đồng (T2 và H1 góp mỗi người 50.000đồng); khoảng 7 giờ 20 phút, ngày 06/8/2017 tại quán nước bị cáo bán cho một nam thanh niên lạ mặt (không biết tên, tuổi, địa chỉ) 01 gói ma túy giá 100.000 đồng; khoảng 7 giờ 30 phút bị cáo bán cho Nông Văn N1, trú tại xã K, huyện T 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng.

Theo lời khai của bị cáo Vũ mạnh T được bán ma túy cho Nông Văn T2, Vũ Văn H1, Nông Văn N1, cơ quan Điều tra đã tiến hành lấy lời khai tất cả các đối tượng đều thừa nhận được mua ma túy với Vũ Mạnh T.

Đối với nam thanh niên lạ mặt đã mua ma túy với Vũ Mạnh T, do không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể , nên cơ quan Điều tra không có cơ sở để xác minh.

Về nguồn gốc ma túy bị cáo khai mua với người đàn ông tại Sòng Chó – Quảng Tây – Trung Quốc, bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ và là người Trung Quốc, nên Cơ quan Điều tra công an huyện Tràng Định không thể điều tra, xác minh làm rõ.

Tại bản cáo trạng số 43/KSĐT ngày 07/11/2017 của Viện kiếm sát nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Vũ Mạnh T về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 194 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố, sau khi đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, xem xét nguyên nhân, điều kiện hoàn cảnh, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử như sau:

Về tội danh: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vũ Mạnh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt: Áp dụng điểm b, khoản 2, Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46  Điều 33 của Bộ luật hình sự năm 1999.

Xử phạt bị cáo Vũ Mạnh T từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, b, c khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự và điểm a, b, c, đ  khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 0,284gam chất ma túy Heroine; tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước 01 xe mô tô không biển kiểm soát, tịch thu sung quỹ Nhà nước 300.000 đồng tiền Việt Nam.

Trả lại cho bị cáo 2.305.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và 104 đồng Nhân dân tệ (tiền Trung Quốc); 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO vỏ màu trắng đã qua sử dụng; 01 ví da màu nâu;  01 thẻ căn cước mang tên Vũ Mạnh T.

Tại phần tranh luận, bị cáo không có gì tranh luận;  bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của bản thân như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo không có ý kiến gì về phần tội danh và hình phạt chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến Kiểm sát viên, bị cáo.

XÉT THẤY

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 06/8/2017; phù hợp với kết luận giám định số 309/KL-PC54, ngày 07/8/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Theo đó, có căn cứ để xác định được rằng, bị cáo sang bên Trung Quốc làm thợ xây, do bản thân nghiện chất ma túy Heroine nên khi về Việt Nam bị cáo đã mua ma túy về sử dụng và nhiều lần bán lại cho nhiều đối tượng nghiện để kiếm lời. Riêng sáng ngày 06/8/2017 tại quán nước đầu cầu Xóm Đạo, thị trấn Thất Khê bị cáo đã bán được 03 gói ma túy cho những đối tượng nghiện là Nông Văn T2 và Vũ Văn H1, 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng; bán cho một nam thanh niên lạ mặt không biết tên, tuổi, địa chỉ 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng; bán cho Nông Văn N1 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng. Do đó, cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tràng Định truy tố đối với bị cáo Vũ Mạnh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội. Bởi hành vi phạm tội của bị cáo đã vi phạm chính sách pháp luật của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gieo rắc tệ nạn xã hội, gây tác hại xấu đến sức khỏe, làm suy thoái nòi giống, phẩm giá con người, gây mất ổn định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân. Đặc biệt là hiện nay ma túy đã trở thành một “Quốc nạn”, tác động trực tiếp đến từng cá nhân, từng gia đình và toàn xã hội. Ma túy đã kéo theo một loạt các tội phạm hình sự khác như: Trộm cắp, giết người, cố ý gây thương tích, chiếm đoạt tài sản… Đồng thời gây ra nhiều bệnh nguy hiểm khác, trong đó có căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS. Bởi vậy đối với bị cáo cần áp dụng mức hình phạt thật nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra mục đích để nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm. Để có mức án thỏa đáng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử đánh giá về tính chất mức độ của hành vi phạm tội và nhân thân cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Bị cáo Vũ mạnh T chưa có tiền án tiền sự nhưng là đối tượng nghiện ma túy, có nhân thân xấu. Bản thân bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội của mình là nguy hiểm cho xã hội và đi ngược lại lợi ích của cộng đồng, nhưng do để có ma túy sử dụng và việc mua bán ma túy thu lại siêu lợi nhuận nên bị cáo vẫn bất chấp coi thường kỷ cương pháp luật của Nhà nước, lao vào con đường phạm tội mua bán ma túy để kiếm lời. Với hành vi phạm tội của bị cáo nêu trên thấy rằng có căn cứ để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội  một thời gian dài đủ để làm bài học răn đe đối với những người khác. Ngoài tình tiết tăng nặng định khung hình phạt thì bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, do đó, có căn cứ cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm p khoản 1, Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.

Xét ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên về mức hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra được Hội đồng xét xử xét chấp nhận

Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự, đối với số ma túy thu giữ tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 2.605.000 đồng thu giữ của bị cáo, trong số tiền này có 300.000 đồng là tiền do bán ma túy mà có nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước. Tịch thu để hóa giá 01 xe mô tô nhã hiệu KINLON/XINGBANG màu sơn đỏ, không BKS, có số khung LS2PEAJX7D26G0408, xe cũ đã qua sử dụng.

Trả lại cho bị cáo số tiền 2.305.000 đồng, số tiền trên Công an huyện Tràng Định đã nộp vào tài khoản số: 3949.0.1053629.00000 ngày 16/10/2017, tại kho bạc Nhà nước Việt Nam huyện Tràng Định.

Trả lại cho bị cáo số tiền 104 đồng Nhân dân tệ (tiền Trung quốc); 01

Điện thoại di động; 01 ví da màu nâu; 01 thẻ căn cước. Các tang vật trên lưu giữ tại kho của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tràng Định theo biên bản bàn giao ngày 7/11/2017.

Về hình phạt bổ sung: Tại biên bản xác minh ngày 06/9/2017 của Công an huyện Tràng Định, bị cáo không có tài sản riêng, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Vũ Mạnh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2.  Về hình phạt:

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 của Bộ luật hình sự năm 1999; xử phạt bị cáo Vũ Mạnh T 07 ( Bẩy) năm tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 06/8/2017.

Về hình phạt bổ sung; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3.Về xử lý vật chứng:  Căn cứ điểm a, b, c khoản 1, Điều 41 của Bộ luật hình sự và điểm a, b, c, đ  khoản 2, Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Tch thu, tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong (bên trong phong bì có 0,284 gam chất ma túy Heroine).

Tch thu sung công quỹ: Số tiền 300.000 đồng của bị cáo Vũ Minh T do phạm tội mà có trong tổng số 2.605.000đ thu giữ của bị cáo. 01 xe mô tô nhãn hiệu   KINLON/XINGBANG   màu   sơn   đỏ,   không   BKS;   có   số   khung LS2PEAJX7D26G0408, xe cũ đã qua sử dụng.

Trả lại cho bị cáo số tiền 2.305.000 đồng số tiền trên Công an huyện tràng Định đã nộp vào tài khoản số: 3949.0.1053629.00000 ngày 16/10/2017, tại kho bạc Nhà nước Việt Nam huyện Tràng Định.

Trả lại cho bị cáo số tiền 104 đồng Nhân dân tệ (tiền Trung quốc); 01

Điện thoại di động OPPO vỏ màu trắng đã qua sử dụng; 01 ví da màu nâu đã cũ bị sờn bạc; 01 thẻ căn cước công dân số 020084000072, của vũ Mạnh T.

Các tang vật trên lưu giữ tại kho của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tràng Định theo biên bản bàn giao ngày 07/11/2017.

4. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm g khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo Vũ Mạnh T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

420
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2017/HSST ngày 28/11/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:50/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tràng Định - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về