Bản án 105/2018/HNGĐ-ST ngày 31/10/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 105/2018/HNGĐ-ST NGÀY 31/10/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Vào ngày 31 tháng 10 năm 2018, tại Toàán nhân dân huyện Xuân Lộc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 131/2018/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 3 năm 2018 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 112/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 10 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1991.

Địa chỉ: ấp B, xã B, huyện X, tỉnh BàRịa - Vũng Tàu.

2. Bị đơn: Anh Lê T, sinh năm 1991.

Địa chỉ đăng ký hộ khẩu thường trú: thôn X, xãC, huyện C, tỉnh Khánh Hòa.

Địa chỉ đăng ký tạm trú: ấp A, xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai.(Chị Nguyễn Thị T và anh Lê T vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện ngày 15 tháng 3 năm 2018 vàquátrình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Nguyễn Thị T trình bày: trên cơ sở tự nguyện, chị vàanh LêT chung sống với nhau vào năm 2011 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện C, tỉnh Khánh Hòa vào ngày 21 tháng 10 năm 2013. Đây làhôn nhân lần đầu của cả hai.

Cuộc sống chung của anh chị hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi nhau, anh Lê T hay ăn nhậu, không lo làm ăn. Anh chị không còn sống chung với nhau từ tháng 6 năm 2017 đến nay. Nhận thấy, mâu thuẫn đã thật sự trầm trọng, tình cảm không còn, hôn nhân không thể tiếp tục tồn tại nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Lê T.

Về con chung: chị và anh Lê T có 02 con chung là: cháu Lê Nguyễn Gia T sinh ngày 02 tháng 7 năm 2012 và cháu Lê Nguyễn Gia B sinh ngày 27 tháng 5 năm 2014. Khi ly hôn, chị yêu cầu được nuôi dưỡng cả 02 con chung. Chị không yêu cầu anh Lê T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: không có.

- Quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Lê T trình bày: anh và chị Nguyễn Thị T tự nguyện đăng ký kết hôn năm 2013, cuộc sống vợ chồng không có mâu thuẫn gì lớn, nhưng hơn một năm nay anh chị không sống chung với nhau, cũng không liên lạc gìvới nhau. Nay chị Nguyễn Thị T yêu cầu ly hôn anh đồng ý.

Về con chung: anh đồng ýgiao 02 con chung cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng.

Về tài sản chung vànợ chung: không có.

- Ý kiến của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân nhân dân huyện Xuân Lộc: về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vàsự chấp hành pháp luật của các đương sự cơ bản đúng pháp luật.

Về việc giải quyết vụ án: về quan hệ hôn nhân, cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Lê T; về con chung, giao cả 02 con chung cho chị Nguyễn Thị T nuôi dưỡng; tạm miễn khoản cấp dưỡng nuôi con cho anh LêT; về tài sản chung và nợ chung không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Về quan hệ pháp luật: chị Nguyễn Thị T khởi kiện yêu cầu ly hôn anh Lê T hiện đang tạm trú tại ấp A, xã X, huyện Xuân Lộc vàyêu cầu nuôi dưỡng con chung nên quan hệ pháp luật là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Xuân Lộc.

 [2] Về tư cách tham gia tố tụng: chị Nguyễn Thị T khởi kiện yêu cầu ly hôn anh Lê T nên chị Nguyễn Thị T là nguyên đơn, anh LêT là bị đơn.

 [3] Về thủ tục tố tụng: chị Nguyễn Thị T vàanh LêT có đơn xin xét xử vắng mặt, nên xét xử vắng mặt chị Nguyễn Thị T và anh Lê T tại phiên tòa là phù hợp với quy định tại Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

 [4] Về quan hệ hôn nhân: chị Nguyễn Thị T và anh LêT tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn theo luật định nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Chị Nguyễn Thị T cho rằng vợ chồng mâu thuẫn làdo bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi nhau anh Lê T hay ăn nhậu, không lo làm ăn, anh chị không sống chung từ tháng 6 năm 2017 đến nay. Quá trình giải quyết vụ án anh Lê T trình bày vợ chồng không sống chung với nhau hơn một năm nay và cũng không liên lạc gì với nhau. Tòa án đã triệu tập nhiều lần anh Lê T và chị Nguyễn Thị T đến Tòa án để hòa giải mâu thuẫn nhưng anh Lê T vẫn không có mặt. Như vậy đã đủ cơ sở xác định tình trạng hôn nhân của chị Nguyễn Thị T và anh Lê T mâu thuẫn đã thật sự trầm trọng, không thể hàn gắn tình cảm, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, do vậy nên chấp nhận cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Lê T là phù hợp.

 [5] Về con chung: chị Nguyễn Thị T yêu cầu được nuôi dưỡng 02 con chung là cháu Lê Nguyễn Gia T sinh ngày 02 tháng 7 năm 2012 và cháu Lê Nguyễn Gia B sinh ngày 27 tháng 5 năm 2014. Xét thấy, các con của anh chị hiện đang sống cùng chị Nguyễn Thị T, quá trình giải quyết vụ án anh Lê T đồng ý cho chị Nguyễn Thị T tiếp tục nuôi con. Vì vậy, nên giao con chung cho chị Nguyễn Thị T tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình.

 [6] Về cấp dưỡng nuôi con chung: chị Nguyễn Thị T không yêu cầu anh Lê T cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

 [7] Về tài sản chung và nợ chung: chị Nguyễn Thị T và anh Lê T trình bày không có nên không xem xét.

 [8] Về án phí: chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

 [9] Xét thấy, nhận định của Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc về việc giải quyết vụ án phù hợp với nhận định trên nên chấp nhận.

Vìcác lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 vàĐiều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Lê T.

- Về con chung: giao cháu LêNguyễn Gia T sinh ngày 02 tháng 7 năm 2012 vàcháu LêNguyễn Gia B sinh ngày 27 tháng 5 năm 2014 cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi và có khả năng lao động.

Tạm miễn cấp dưỡng nuôi con cho anh Lê T.

Anh Lê T được quyền thăm nom, chăm sóc con chung. Khi cần thiết, chị Nguyễn Thị T vàanh Lê T được quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con cũng như việc cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung vànợ chung: không xem xét giải quyết.

- Về án phí: chị Nguyễn Thị T phải chịu án phídân sự sơ thẩm là300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phídân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số 008275 ngày 30 tháng 3 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Lộc, chị Nguyễn Thị T đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Chị Nguyễn Thị T, anh LêT được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự cóquyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 105/2018/HNGĐ-ST ngày 31/10/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:105/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Lộc - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về