TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PLEIKU, TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 105/2017/HS-ST NGÀY 08/08/2017 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI TRẺ EM
Ngày 08 tháng 8 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Pleiku xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 88/2017/HSST, ngày 22/6/2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 170/2017/QĐXXST-HS, ngày 21 tháng 7 năm 2017 đối với bị cáo:
Dương Văn T, tên gọi khác: Tèo, sinh ngày 08/11/1990 tại tỉnh Gia Lai. Nơi cư trú: Thôn M, xã D, huyện C, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: làm nông; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: kinh; con ông Dương Văn L và bà Bùi Thị T; có vợ, không có con; tiền án: 03 tiền án, tiền sự: không có; bị tạm giữ, tạm giam: Ngày 21/01/2017 cho đến nay.Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: cháu Y, sinh ngày 15/02/2002. Địa chỉ: Thôn B1, xã D, huyện Đ, tỉnh Gia Lai.
Vắng mặt tại phiên tòa (có đơn xin xét xử vắng mặt).
- Người đại diện hợp pháp của bị hại: Ông L, sinh năm 1977 và bà B, sinh năm 1976 (cha, mẹ cháu Y). Cùng có địa chỉ: Thôn B1, xã D, huyện Đ, tỉnh Gia Lai.
Đều có mặt tại phiên tòa.
- Người tham gia tố tụng khác: Người làm chứng:
1. Anh Phạm Hoàng T, sinh năm 1999.
Trú tại: Thôn I, xã N, huyện C, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt tại phiên tòa.
2. Chị H, sinh năm 1993.
Trú tại: Làng D, xã D, huyện Đ, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt tại phiên tòa.
- Người phiên dịch: Bà NayH’Hyan.
Địa chỉ: Thôn 4, xã Chư Á, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Có mặt tại phiên tòa
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Dương Văn Trung bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Dương Văn Trung và cháu Yuam quen biết với nhau thông qua mạng xã hội, cả hai nảy sinh tình cảm nam nữ và thường xuyên điện thoại, nhắn tin cho nhau từ tháng 11/2016.
Vào khoảng 11 giờ, ngày 20/01/2017, T gọi điện thoại rủ cháu Y lên thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai chơi thì cháu Y đồng ý. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, T đi bộ qua nhà anh Phạm Hoàng T, sinh năm 1999, trú tại: thôn B, xã N, huyện C, tỉnh Gia Lai, là bạn của Tvà rủ anh Tùng cùng đi lên thành phố Pleiku chơi, anh T đồng ý. Trung nói anh T mượn thêm một xe máy để lên thành phố Pleiku đón bạn của T nên anh T đã đến nhà chị Rơ Lan H, sinh năm 1993, trú tại: làng D, xã A D, huyện Đ, tỉnh Gia Lai, là bạn của anh T mượn xe mô tô không có biển số, nhãn hiệu Wave RSX màu đen của chị Rơ Lan H. Chị H đồng ý và giao xe mô tô trên cho anh T. Sau đó, T điều khiển xe mô tô không có biển số, nhãn hiệu Yamaha Sirius màu xanh đen của anh T, còn anh Tùng điều khiển xe mô tô của chị H, cả hai đi từ huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai đến thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, khi đến thành phố Pleiku thì cả hai đến nhà nghỉ An Tiên tại số nhà 119 đường Hai Bà Trưng, tổ 09, phường Diên Hồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai để thuê phòng nghỉ, anh T thuê phòng số 305 và do đi đường bị mệt nên anh T đi ngủ, còn T thuê phòng số 306. Sau đó, T gọi điện thuê 01 xe ô tô của hãng taxi Mai Linh (không xác định được biển số và người điều khiển) rồi đến nhà cháu Y và đón cháu Y cùng lên thành phố Pleiku. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, Trung và cháu Y đến nhà nghỉ An Tiên, tổ 9, phường Diên Hồng, thành phố Pleiku và cùng vào phòng số 306, T đóng cửa phòng lại rồi cả hai ôm nhau và cùng nằm xuống giường, lúc này T hỏi cháu Y: “Có yêu anh không” thì cháu Y nói: “Có”. Nghe vậy, T hôn vào má và miệng của cháu, T dùng tay trái xoa ngực của cháu Y; tiếp đó, T dùng tay phải kéo khóa quần, cởi quần Jean và quần lót của cháu Y ra, rồi T tự cởi quần áo của mình rồi nằm đè lên người của cháu Y lúc này đang trong tư thế nằm ngửa, hai chân dang rộng ra hai bên, T dùng tay đút dương vật đang cương cứng vào âm hộ của cháu Y rồi nhấp lên nhấp xuống được khoảng 05 phút thì xuất tinh trong âm hộ của cháu Y. Sau khi quan hệ tình dục xong, cả hai tự mặc quần áo và cùng đi ra ngoài ăn tối. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, T cùng cháu Y quay về lại phòng số 306 của nhà nghỉ An Tiên và tiếp tục quan hệ tình dục với nhau một lần nữa, sau đó cả hai nằm ngủ. Đến khoảng 06 giờ ngày 21/01/2017, T điều khiển xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius màu xanh đen chở cháu Y đi về nhà của cháu Y thì bị ông Am L là cha của cháu Y phát hiện, sau đó đến Công an trình báo. Đến 13 giờ 30 phút cùng ngày, Dương Văn T đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.
Qua giám định đối với cháu Y, tại Bản kết luận giám định pháp y về tình dục số 18/TD-TTPY ngày 24/01/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Gia Lai, kết luận:
“- Toàn thân không dấu xết trầy xước.
- Khám bộ phận sinh dục: Màng trinh rách 5 giờ, 7 giờ. Vết rách còn hồng, không chảy máu. Âm đạo không dịch.
- Kết quả siêu âm ngày 21/01/2017: Chưa thấy bất thường trên siêu âm phụ khoa.
- Kết quả xét nghiệm vi sinh ngày 21/01/2017: HCG âm tính; soi tươi dịch âm đạo: Không thấy tinh trùng.
Căn cứ Thông tư 20/2014/TT-BYT không có mục hướng dẫn xếp loại tỷ lệ thương tật tổn hại sức khỏe về xâm hại tình dục”.
Tại phiếu xét nghiệm HIV ngày 14/02/2017 của Trung tâm phòng chống HIV/AIDS tỉnh Gia Lai kết luận Dương Văn Trung âm tính với kháng thể kháng HIV.
Tại bản cáo trạng số: 98/CTr-VKS, ngày 22/6/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo Dương Văn T về tội: “Giao cấu với trẻ em” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 115 của Bộ luật hình sự 1999.
Tại phiên toà hôm nay, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố đề nghị:
- Về mức hình phạt:
Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 115, Điều 33, điểm p khoản 1, 2 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009; điểm x khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.
+ Xử phạt: Bị cáo Dương Văn T: Từ 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù đến 05 (năm) năm tù.
- Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Buộc bị cáo Dương Văn T bồi thường cho bị hại Y có người đại diện hợp pháp là ông Am L và bà B số tiền tổn thất tinh thần là 60.000.000 đồng.
Ý kiến của đại diện hợp pháp của bị hại: Yêu cầu bị cáo Dương Văn T bồi thường cho bị hại Yuam số tiền tổn thất tinh thần là 60.000.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Trong khoảng thời gian từ 20 giờ đến hơn 23 giờ, ngày 20/01/2017, tại phòng số 306 nhà nghỉ An Tiên tại số nhà 119 đường Hai Bà Trưng, tổ 9, phường Diên Hồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai, Dương Văn T đã 02 lần thực hiện hành vi giao cấu với bị hại Y khi bị hại Y mới 14 tuổi 11 tháng 05 ngày.
[2] Lời khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của cbị cáo Dương Văn T trong quá trình điều tra vụ án và tại phiên toà là phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được trong hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng. Như vậy hành vi của bị cáo Dương Văn T đã phạm vào tội “Giao cấu với trẻ em” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 115 của Bộ luật hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku đã truy tố là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến sự phát triển tâm sinh lý bình thường của trẻ em. Hành vi của bị cáo bị pháp luật nghiêm cấm và đạo đức xã hội lên án, gây bức xúc và lo sợ cho nhân dân. Khi thực hiện hành vi phạm tội, mặc dù bị hại Y đồng tình để cho bị cáo giao cấu nhưng bị cáo nhận thức được bị cáo là người đã thành niên, bị hại Y chưa đủ 16 tuổi việc thực hiện hành vi giao cấu bị pháp luật nghiêm cấm, đồng thời trước đó bị cáo đã từng bị xét xử về tội giao cấu với trẻ em nhưng vì dục vọng bị cáo bất chấp pháp luật và 02 lần thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, cần xử phạt bị cáo một mức án thật nghiêm khắc để giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.
[4] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo Dương Văn T. Bị cáo T có nhân thân xấu, bị cáo 03 tiền án: Năm 2006, phạm tội: “Trộm cắp tài sản” bị Tòa án nhân dân huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai xử phạt 09 tháng tù, chấp hành án tại Trại giam Gia Trung, đến ngày 04/11/2008 về địa phương sinh sống. Năm 2009, phạm tội: “Giao cấu với trẻ em” bị Tòa án nhân dân huyện Đức Cơ xử phạt 18 tháng tù, chấp hành án tại Trại giam Gia Trung đến ngày 09/8/2011 về địa phương sinh sống. Năm 2013, cùng đồng phạm phạm tội: “Trộm cắp tài sản” bị Tòa án nhân dân huyện Đức Cơ xử phạt 03 năm tù, chấp hành án tại Trại giam Gia Trung, đến ngày 28/04/2016 về địa phương sinh sống.
Tuy nhiên, sau khi chấp hành án xong bị cáo không lao động, sửa chữa bản thân để trở thành người có ích cho xã hội mà lại tiếp tục phạm tội. Do đó, lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, vì vậy, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt cần xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Sau khi phạm tội bị cáo đã đến Cơ quan điều tra đầu thú, quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Mẹ của bị cáo là người có công với cách mạng. Do đó, cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999 và điểm x khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 cho bị cáo là phù hợp.
[5] Về vật chứng của vụ án:
- 01 quần Jean nhãn hiệu Vide jeans màu xanh, 01 quần lót màu hồng, 01 máo thun màu trắng xám ngắn tay, mặt trước ghi chữ BVLLS, 01 áo ngực màu trắng và 01 áo khoác Jean hiệu Koghi màu xanh bạc của cháu Yuam. Bị hại không yêu cầu nhận lại và cũng không còn sử dụng được. Vì vậy cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp.
- 01 áo khoác gió nhãn hiệu Dubin Classic Collection, màu đen, ở góc phía trước ngực áo bên trái có logo bằng kim loại có dòng chữ “Great dynamic”, 01 áo thun ngắn tay hiệu Zhong Soru màu trắng sọc đen, 01 quần Jean nhãn hiệu Dscovared, màu xanh và 01 quần lót nam nhãn hiệu Oh yes của Dương Văn Trung. Bị cáo không yêu cầu nhận lại và cũng không còn sử dụng được. Vì vậy cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp.
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu đen, số Imei 355171/06/027978/9 cùng 01 sim điện thoại nhãn hiệu Viettel số 01685037527 của Dương Văn T. Qua điều tra xác định chiếc điện thoại này không liên quan đến tội phạm. Vì vậy cần trả lại cho Dương Văn T là phù hợp.
[6] Về trách nhiệm dân sự:
Quá trình điều tra vụ án, bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại yêu cầu bị cáo Dương Văn T bồi thường số tiền về tổn thất tinh thần là 60.000.000 đồng. Trong đơn xin xét xử vắng mặt của bị hại và tại phiên tòa, đại diện hợp pháp của bị hại yêu cầu bị cáo T bồi thường số tiền về tổn thất tinh thần là 60.000.000 đồng. Bị cáo T đồng ý với yêu cầu bồi thường của bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại.
Hội đồng xét xử xét thấy: Sự thỏa thuận về trách nhiệm dân sự giữa bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại là tự nguyện, không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội, vì vậy cần chấp nhận, buộc bị cáo Dương Văn T bồi thường cho bị hại Yuam có người đại diện hợp pháp là ông Am L và bà B số tiền tổn thất tinh thần là 60.000.000 đồng.
[7] Về án phí: Bị cáo Dương Văn T phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm và tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Dương Văn T phạm tội: “Giao cấu với trẻ em”.
- Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 115, điểm p khoản 1, 2 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009; điểm x khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt: Bị cáo Dương Văn Tg 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam là ngày 21/01/2017.
Về vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Tịch thu tiêu hủy: 01 quần Jean nhãn hiệu Vide jeans màu xanh, 01 quần lót màu hồng, 01 áo thun màu trắng xám ngắn tay, mặt trước ghi chữ BVLLS, 01 áo ngực màu trắng, 01 áo khoác Jean hiệu Koghi màu xanh bạc, 01 áo khoác gió nhãn hiệu Dubin Classic Collection, màu đen, ở góc phía trước ngực áo bên trái có logo bằng kim loại có dòng chữ “Great dynamic”, 01 áo thun ngắn tay hiệu Zhong Soru màu trắng sọc đen, 01 quần Jean nhãn hiệu Dscovared, màu xanh và 01 quần lót nam nhãn hiệu Oh yes.
Tuyên trả lại cho Dương Văn T: 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia 105, màu đen, số Imei 355171/06/027978/9 cùng 01 sim điện thoại nhãn hiệu Viettel số 01685037527.
Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/6/2017 giữa Chi cục thi hành án dân sự thành phố Pleiku và Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku.
Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 2 Điều 42 của Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009; Các Điều 584, 585, 586, 592 của Bộ luật dân sự năm 2015.
Buộc bị cáo Dương Văn T bồi thường tổn thất tinh thần cho cháu Y có người đại diện hợp pháp của cháu Yuam là ông Am L và bà B số tiền là: 60.000.000 đồng (sáu mươi triệu đồng).
Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự 2003; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án”.
Buộc bị cáo Dương Văn T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Buộc bị cáo Dương Văn T phải chịu 3.000.000 đồng (ba triệu đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay (ngày 08/8/2017). Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc từ ngày niêm yết bản sao bản án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm.
Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 105/2017/HS-ST ngày 08/08/2017 về tội giao cấu với trẻ em
Số hiệu: | 105/2017/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/08/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về