Bản án 104/2020/HS-ST ngày 05/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 104/2020/HS-ST NGÀY 05/11/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 11 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Phú mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 105/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 117 /20 20 /QĐXXST-HS ngày 20 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Hoàng L – sinh năm 1990, tại Đồng Nai Nơi cư trú: Ấp N.L x, xã P.X, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Làm rẫy; Trình độ văn hóa (học vấn): 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Thanh C (Đã chết) và bà Huỳnh Thị S – sinh năm 1963; Chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 20/7/2009, bị Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, Đồng Nai xử phạt 09 (Chín) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; Bị tạm giam từ ngày 09/7/2020. (Có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: (Vắng mặt)

1/ Anh Trần Minh B – sinh năm 1987 Địa chỉ: Tổ a, Khu b, thị trấn T.P, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.

2/ Anh Phan Văn H – sinh năm 1979 Địa chỉ: Tổ a, Khu b, thị trấn T.P, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.

3/ Anh Nguyễn Văn S – sinh năm 1982 Địa chỉ: Tổ a, Khu b, thị trấn T.P, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.

4/ Anh Nguyễn Hoàng L – sinh năm 1983 Địa chỉ: Ấp N.L 2, xã P.X, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.

- Người làm chứng: Anh Lê Văn T – sinh năm 1957 (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp y, xã P.Đ, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 09 giờ 20 phút ngày 09/7/2020, tại ấp N.L x, xã P.X, Công an huyện Tân Phú phối hợp cùng Công an thị trấn Tân Phú, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai, tiến hành bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Hoàng L đang bán trái phép chất ma tuý cho Trần Minh B. Thu giữ tang vật gồm có: Số tiền 200.000 đồng thu giữ trên tay Lâm (do vừa bán ma túy cho B), 01 (Một) đoạn ống hút nước nhựa màu trắng thu giữ trên tay B (bên trong có chứa heroin mua của L); 01 (Một) xe mô tô Dream màu đen biển số 60P2-2730; Số tiền 2.705.000 đồng và 01 cuộn băng keo đen thu giữ trong người Lâm.

Sau khi bắt quả tang, tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Hoàng L và đã thu giữ tang vật gồm có: 01 (Một) gói nylong bên trong chứa thảo mộc khô thu giữ trong tủ lạnh phòng bếp; 02 (Hai) kéo kim loại, 04 (Bốn) ống tiêm, 01 (Một) đoạn ống hút nước màu trắng dài 10cm trong phòng ngủ của L.

Qua điều tra làm rõ được hành vi phạm tội của Nguyễn Hoàng L như sau: Nguyễn Hoàng L là đối tượng nghiện ma túy. Để có ma túy sử dụng và có tiền tiêu xài cá nhân, Lâm đã đến khu vực nhà thờ KM 136 thuộc xã P.S, huyện Tân Phú để mua ma túy về nhà tự phân nhỏ thành tép, sau đó L sử dụng một phần, còn lại bán lại cho những người nghiện khác. Cụ thể:

- Đối với Trần Minh B đã mua ma túy của L 02 lần: Lần 01 mua 800.000 đồng loại Heroin vào cuối tháng 6/2020, Lâm đồng ý và giao dịch tại “Quán cơm niêu H.S” thuộc ấp N.L x, xã P.X; lần 02 mua ma túy của Lâm với giá 200.000 đồng loại Heroin cũng tại quán “Cơm niêu H.S” thì bị bắt quả tang ngày 09/7/2020.

- Đối với Phan Văn H đã mua ma túy của L 03 lần: Vào các ngày 06/7, 08/7, 09/7/2020 mỗi lần 01 gói ma túy loại Heroin với giá 200.000 đồng. Vào ngày 06/7/2020 L trực tiếp đến nhà H ở khu 5, thị trấn T.P để bán ma túy, còn 02 ngày 08/7 và 09/7 thì H đến nhà L ở ấp N.L x để mua ma túy.

- Đối với Nguyễn Văn S đã mua ma túy của Lâm 02 lần: Lần 01, vào giữa tháng 6/2020, S điện thoại cho L hỏi mua 200.000 đồng ma túy loại (Heroin) thì L đồng ý và hẹn bán ma túy ở đầu hẻm vào nhà L ở gần nhà thờ B.L, sau đó S đến đầu hẻm thì L chạy xe Dream màu đen ra bán cho S 01 gói ma túy, S đưa lại Lâm 200.000 đồng. Lần 02 cách lần 01 đến 03 ngày sau, S cũng hỏi mua 200.000 đồng ma túy loại (Heroin) thì L hẹn đi vào hẻm nhà L, sau đó S đi vào hẻm nhà L một đoạn thì L đi bộ ra bán cho S 01 gói ma túy, S đưa lại L 200.000 đồng.

Tổng cộng, L đã bán cho B 02 (Hai) lần, bán cho H 03 (Ba) lần và bán cho S 2 (Hai) lần với số tiền là 2.000.000đ.

Qua điều tra, cho đối chất, nhận dạng đối với các đối tượng đã mua ma túy của Nguyễn Hoàng L, thì Trần Minh B, Phan Văn H và Nguyễn Văn S đều đã nhận dạng và khẳng định đã mua ma túy của Lâm với số điện thoại liên hệ, số lượng, số lần, số tiền, thời gian và địa điểm cụ thể. Đối với Nguyễn Hoàng L khai báo chỉ thừa nhận bán ma túy cho Bình vào ngày 09/7/2020 khi bị bắt quả tang, còn lại không thừa nhận việc bán ma túy cho Bình lần trước, không thừa nhận bán ma túy cho S, và H. Tại phiên tòa, bị cáo thay đổi lời khai và thành khẩn khai báo, đã thừa nhận toàn bộ hành vi của mình.

Tại Bản kết luận giám định số 1409/KLGĐ-PC09 ngày 15/7/2020 (BL 25) của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu chất bột màu trắng (kí hiệu M1) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,0262 gam, loại Heroine. Mẫu lá thảo mộc khô cắt nhỏ (kí hiệu M2) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 1,0827 gam, loại cần sa. Không hoàn lại mẫu vật do đã sử dụng hết trong công tác giám định.

Theo Cáo trạng số 102/CT-VKSTP-ĐN ngày 23/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú đã truy tố bị cáo Nguyễn Hoàng L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng L mức án 08 (Tám) đến 09 (Chín) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Về xử lý vật chứng: 01 (Một) cuộn băng keo đen, 02 (Hai) kéo kim loại, 04 (Bốn) ống tiêm và 01 (Một) đoạn ống hút nước màu trắng dài 10cm là công cụ, phương tiện phạm tội và không còn giá trị sử dụng nên đề nghị tịch thu tiêu hủy; 01 (Một) xe mô tô Dream màu đen biển số 60P2-2730 là phương tiện phạm tội do Lâm quản lý, sử dụng hợp pháp nên đề nghị tịch thu tiêu hủy; số tiền 2.705.000 đồng đã trả lại cho L do không liên quan đến vụ án là phù hợp nên không đề nghị xem xét; đối với số tiền bị cáo có được từ việc mua bán ma túy mà có, đây là khoản tiền thu lợi bất chính từ việc phạm tội, nên đề nghị tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi mua bán trái phép chất ma túy, đồng ý với tội danh, mức hình phạt mà Viện kiểm sát đã truy tố, đề nghị là tương xứng đối với bị cáo.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi của Điều tra viên, Kiểm sát viên, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Phú, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú:

Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh:

Tại phiên tòa, bị cáo không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ nào khác và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ như Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản niêm phong đồ vật tài liệu bị tạm giữ, Biên bản khám xét, Biên bản nhận dạng, Biên bản đối chất, Kết luận giám định... Như vậy, đã có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử xác định:

Trong thời gian từ giữa tháng 6/2020 đến ngày 09/7/2020, tại địa bàn xã P.X và thị trấn T.P, huyện Tân Phú, Nguyễn Hoàng L thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy (nhằm mục đích sử dụng một phần, còn lại bán lại cho những người nghiện khác) và đã 07 (Bảy) lần bán ma túy (heroin) cho Trần Minh B, Phan Văn H và Nguyễn Văn S, trong đó vào lần bán 0,0262 gam ma túy (heroin) cho Bình ngày 09/7/2020 thì bị phát hiện bắt quả tang. Hành vi của Nguyễn Hoàng L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tình tiết giảm nhẹ của bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Căn cứ quyết định hình phạt:

Bị cáo là người đã thành niên nhận thức đầy đủ về hành vi của mình, còn trẻ nhưng do nghiện ma túy, không có nghề nghiệp, vì muốn có ma túy để sử dụng thỏa mãn cho nhu cầu bản thân nên đã thực hiện hành vi mua bán phép chất ma túy, với lỗi cố ý.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý đối với các chất ma túy của Nhà nước được pháp luật hình sự bảo vệ. Hành vi của bị cáo còn làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an, an toàn xã hội tại địa phương. Hiện nay, ma túy đã và đang là mối quan tâm lo lắng trong toàn xã hội nói chung và trên địa bàn nói riêng. Việc mua bán trái phép chất ma túy một phần là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm và hành vi phạm pháp luật khác, gây hủy hoại sức khỏe cho người sử dụng, khánh kiệt về kinh tế, giảm sút sức lao động sản xuất trong xã hội.

Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với hai tình tiết định khung tăng nặng, vì vậy Hội đồng xét xử xem xét áp dụng cho bị cáo mức án nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo tự rèn luyện ý thức chấp hành pháp luật, tu dưỡng bản thân trở thành người công dân tốt sống có ích cho xã hội, đồng thời góp phần răn đe, phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, do bị cáo có tình tiết giảm nhẹ như trên nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện chính sách nhân đạo pháp luật của Nhà nước.

[6] Về áp dụng hình phạt bổ sung: Căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra, đồng thời xem xét tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của các bị cáo, thể hiện các bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về biện pháp tư pháp:

Về xử lý vật chứng: Đối với với số ma túy sau giám định không hoàn lại mẫu vật do đã sử dụng hết trong công tác giám định. Đối với 01 (Một) cuộn băng keo đen, 02 (Hai) kéo kim loại, 04 (Bốn) ống tiêm và 01 (Một) đoạn ống hút nước màu trắng dài 10cm là công cụ, phương tiện phạm tội và không còn giá trị sử dụng Hội đồng xét xử xem xét tịch thu tiêu hủy; đối với 01 (Một) xe mô tô Dream màu đen biển số 60P2-2730 là phương tiện phạm tội do bị cáo quản lý, sử dụng hợp pháp (mang tên anh Nguyễn Hoàng L là anh ruột đã tặng cho bị cáo nhưng chưa làm thủ tục sang tên; anh Long thừa nhận không còn là chủ sở hữu, người chiếm hữu, quản lý sử dụng hợp pháp và không có yêu cầu gì) nên Hội đồng xét xử xem xét tịch thu sung công. Đối với số tiền 2.705.000 đồng đã trả lại cho L do không liên quan đến vụ án là phù hợp nên không xem xét; đối với số tiền bị cáo có được từ việc mua bán ma túy mà có đã xác định được tổng cộng là 2.000.000đ, đây là khoản tiền thu lợi bất chính từ việc phạm tội nên Hội đồng xét xử xem xét tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 200.000đ đã nộp theo biên lai thu số 0003169 ngày 28/9/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phú và buộc bị cáo phải nộp tiếp 1.800.000đ để tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

[8] Các vấn đề khác: Đối với việc bị cáo khai có mua ma túy của người đàn ông ở khu vực nhà thờ KM 136 thuộc xã P.S, huyện Tân Phú nhưng hiện chưa xác minh được nhân thân, lai lịch và chưa lấy được lời khai, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau. Đối với quá trình khám xét nhà bị cáo đã thu giữ 01 gói nylong bên trong chứa 1,0827 gam ma túy loại cần sa (bị cáo khai mua cách đây khoảng 01 năm không nhớ mua của ai, với mục đích cho gà ăn) thì không đủ định lượng về tội tàng trữ trái phép chất ma túy nên không xem xét giải quyết.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

[10] Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát phù hợp với một phần nhận định của Hội đồng xét xử, do bị cáo thay đổi lời khai và đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên đối với mức hình phạt sẽ được hội đồng xét xử xem xét.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm b khoản 2 Điều 251; Điều 46, Điều 47; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

- Khoản 2 Điều 106, Khoản 2 Điều 136, Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng L phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng L 07 (Bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09/7/2020.

2. Các biện pháp tư pháp:

2.1 Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) cuộn băng keo đen, 02 (Hai) kéo kim loại, 04 (Bốn) ống tiêm và 01 (Một) đoạn ống hút nước màu trắng dài 10cm.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước đối với 01 (Một) xe mô tô Dream màu đen biển số 60P2-2730 (Tên chủ xe là Nguyễn Hoàng L) là tài sản do bị cáo Nguyễn Hoàng L chiếm hữu, quản lý sử dụng hợp pháp.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/9/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Phú và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phú).

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0003169 ngày 28/9/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phú.

2.2 Buộc bị cáo phải nộp 1.800.000đ (Một triệu tám trăm nghìn đồng) để tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Hoàng L phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4. Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (Sửa đổi, bổ sung năm 2014).

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 104/2020/HS-ST ngày 05/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:104/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về