TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 104/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/06/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 28 tháng 6 năm 2019 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 231/2019/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2019 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 84/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 5 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 87/2019/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Bùi Thị Q sinh năm 1995; Địa chỉ: Thôn Đ, xã T1, huyện T, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt.
2. Bị đơn: Anh Trần Văn H sinh năm 1995; Đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn H1, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng; Hiện đang cai nghiện ma túy tại Cơ sở cai nghiện ma túy Gia Minh; Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 14 tháng 3 năm 2019 cùng các lời khai tại Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, chị Bùi Thị Q (nguyên đơn) trình bày:
Về hôn nhân: Chị Bùi Thị Q và anh Trần Văn H kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, được tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng theo Giấy chứng nhận kết hôn số 22 ngày 03 tháng 10 năm 2014. Sau khi cưới vợ chồng sinh sống tại thôn Hàm Long xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống, vợ chồng hoà thuận, hạnh phúc đến đầu năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do anh Trần Văn H nghiện ma túy, chị tham gia khuyên anh Trần Văn H bỏ ma túy nhưng không được nên thường xảy ra va chạm, cãi nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn căng thẳng nên vợ chồng đã ly thân từ năm 2017 đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không có hạnh phúc, mâu thuẫn vợ chồng đã kéo dài và trầm trọng, vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trần Văn H.
Về con chung: Chị Bùi Thị Q và anh Trần Văn H có hai con chung tên làTrần Thị Thanh T2 sinh ngày 06/9/2014 và Trần Thị Thanh T3 sinh ngày 20/11/2016. Hiện hai con đang khỏe mạnh, phát triển bình thường và do chị đang nuôi dưỡng. Điều kiện nuôi con của chị tốt, đảm bảo được cho con phát triển bình thường. Khi ly hôn chị đề nghị nuôi hai con. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, chị đề nghị để chị và anh Trần Văn H tự thỏa thuận giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Chị Bùi Thị Q và anh Trần Văn H không có tài sản chung, chị không đề nghị Tòa án giải quyết khi ly hôn.
Trong bản tự khai đề ngày 03 tháng 5 năm 2019, anh Trần Văn H (bị đơn) trình bày:
Anh Trần Văn H thừa nhận toàn bộ lời trình bày của chị Bùi Thị Q về việc kết hôn, con chung là đúng. Trong quan hệ hôn nhân đến tháng 02/2017 thì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn do chị Bùi Thị Q tự bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở, anh tìm gọi về nhưng chị Bùi Thị Q không đồng ý. Cũng thời gian đó anh đi cai nghiện ma túy bắt buộc với thời gian 24 tháng. Vợ chồng sống ly thân từ đó, chị Bùi Thị Q không thăm gặp động viên anh lần nào. Nay chị Bùi Thị Q đề nghị ly hôn, anh chưa muốn giải quyết việc ly hôn, mong muốn Tòa án kéo dài thời gian giải quyết để khi anh cai nghiện xong sẽ gặp chị Bùi Thị Q để bàn bạc việc nuôi dạy hai con chung. Hiện chị Bùi Thị Q nuôi hai con từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Tài sản chung anh và chị Bùi Thị Q không có.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và đương sự đã tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng. Về việc giải quyết vụ án thì đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Về các tài liệu, chứng cứ và tình tiết của vụ án:
Các tình tiết, sự kiện không phải chứng minh, các tình tiết mà các bên đã thống nhất: Về quan hệ hôn nhân, con chung và lý do đề nghị Tòa án giải quyết các quan hệ đó phù hợp với các chứng cứ, tài liệu mà đương sự giao nộp, phù hợp với tài liệu do Tòa án thu thập được nên thuộc trường hợp không phải chứng minh; Quan hệ tài sản chung vợ chồng đương sự không yêu cầu giải quyết nên không đặt vấn đề phải chứng minh.
Các tình tiết mà các bên không thống nhất: Không có.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Đây là vụ án Ly hôn, tranh chấp về nuôi con quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Chị Bùi Thị Q vắng mặt tại phiên tòa và có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt, anh Trần Văn H đã được triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt; Căn cứ Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Bùi Thị Q và anh Trần Văn H.
[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Bùi Thị Q và anh Trần Văn H được xác lập theo Giấy chứng nhận kết hôn số 22 ngày 03 tháng 10 năm 2014 của Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng là hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến đầu năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do anh Trần Văn H nghiện ma túy, chị Bùi Thị Q tham gia khuyên anh Trần Văn H bỏ ma túy nhưng không được nên vợ chồng thường xảy ra va chạm, cãi nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Mâu thuẫn trở nên căng thẳng, trầm trọng dẫn đến việc vợ chồng sống ly thân từ năm 2017 đến nay. Tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã kéo dài và trầm trọng, hôn nhân không có hạnh phúc, mục đích của hôn nhân không đạt được nên chị Bùi Thị Q xin ly hôn với anh Trần Văn H. Vì vậy, cần áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Bùi Thị Q với anh Trần Văn H.
[3] Về con chung: Chị Bùi Thị Q và anh Trần Văn H có hai con chung tên là Trần Thị Thanh T2 sinh ngày 06/9/2014 và Trần Thị Thanh T3 sinh ngày 20/11/2016. Khi ly hôn chị Bùi Thị Q đề nghị được nuôi hai con, anh Trần Văn H không trình bày quan điểm. Tài liệu, chứng cứ và lời trình bày của các đương sự thể hiện chị Bùi Thị Q có điều kiện, khả năng và thời gian để chăm sóc con chung tốt, hai con chung đang do chị Bùi Thị Q nuôi dưỡng, đều khỏe mạnh và phát triển bình thường. Anh Trần Văn H đang cai nghiện ma túy không có đủ điều kiện để nuôi con. Vì vậy áp dụng Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao con chung tên Trần Thị Thanh T2 và Trần Thị Thanh T3 cho chị Bùi Thị Q trực tiếp nuôi dưỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, chị Bùi Thị Q trình bày để tự thỏa thuận và anh Trần Văn H không có yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[4] Về tài sản chung: Chị Bùi Thị Q và anh Trần Văn H không có yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[5] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, chị Bùi Thị Q phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 92, Điều 147, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; Áp dụng khoản 1 Điều 51, Điều56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Xử:
1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Bùi Thị Q và anh Trần Văn H.
2. Về nuôi con chung:
2.1. Giao con chung tên Trần Thị Thanh T2 sinh ngày 06/9/2014 và Trần Thị Thanh T3 sinh ngày 20/11/2016 cho chị Bùi Thị Q trực tiếp nuôi dưỡng. Việc trực tiếp nuôi con chung được thực hiện cho đến khi từng con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
2.2. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Bùi Thị Q trình bày để tự thỏa thuận giải quyết, anh Trần Văn H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
3. Về tài sản chung: Chị Bùi Thị Q và anh Trần Văn H không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
4. Về án phí: Chị Bùi Thị Q phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị Bùi Thị Q đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng tại Biên lai số 0000496 ngày 01 tháng 4 năm 2019; Chị Bùi Thị Q đã nộp đủ án phí.
5. Về quyền kháng cáo: Chị Bùi Thị Q, anh Trần Văn H được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.
Bản án 104/2019/HNGĐ-ST ngày 28/06/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 104/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/06/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về