Bản án 104/2018/HSST ngày 19/09/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH - TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 104/2018/HSST NGÀY 19/09/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 9 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 108/2018/HSST ngày 10 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 98/2018/QĐXXST-HS ngày 04/9/2018 đối với bị cáo:

1.Trần Đình L, sinh năm 1988. Tại Ninh Bình. Nơi cư trú: Số nhà 59, đường Trần Phú, phố Phúc Chỉnh 1, phường Nam Thành, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ văn hóa: 8/12. Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam. Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Đinh Xuân C (Bố dượng là Trần K) và bà Nguyễn Thị Y. Vợ, con: Chưa có.

Tiền án: Bản án số 145/2016/HSST ngày 10/11/2016 Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Ra trại ngày 12/8/2017.

Tiền sự: Ngày 02/4/2018 Công an phường Nam Thành xử phạt hành chính 1.500.000đồng về hành vi Trộm cắp tài sản.

Lịch sử bản thân: Ngày 28/4/2003, Ủy ban nhân dân thị xã Ninh Bình ra Quyết định số 110 đưa vào trường giáo dưỡng 24 tháng.

Tại bản án số 30/2006/HSST ngày 04/4/2006 Tòa án nhân dân thị xã Ninh Bình xử phạt 9 tháng tù về tội Cưỡng đoạt tài sản, 18 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Tổng cộng là 27 tháng tù.

Tại bản án số 83/2010/HSST ngày 19/8/2008 Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình xử phạt 27 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Bản án số 176/2010/HSST ngày 22/12/2010 Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình xử phạt 30 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

Ngày 27/12/2013 Công an phường Ninh Sơn xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 750.000đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Ngày 31/12/2013 Ủy ban nhân dân thành phố Ninh Bình ra Quyết định số 4376 đưa vào cơ sở chữa bệnh thời gian 24 tháng.

Ngày 10/8/2016 Công an phường Nam Thành, thành phố Ninh Bình xử phạt hành chính phạt tiền 1.000.000đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 05/6/2018 đến ngày 14/6/2018 chuyển tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình đến nay. Có mặt.

2. Đoàn Văn K, sinh năm 1986. Tại Ninh Bình. Nơi cư trú:số nhà 108, ngõ 202, đường Tây Thành, phố Đẩu L, phường Tân Thành, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ văn hóa: 9/12. Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam. Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam. Con Đoàn Văn D (đã mất) và bà Nguyễn Thị T. Vợ, con: Chưa có. Tiền án, tiền sự: Chưa có.

Lịch sử bản thân: Ngày 11/01/2005 Công an phường Tân Thành xử phạt vi phạm hành chính 100.000đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Ngày 08/6/2009 Công an phường Tân Thành xử phạt vi phạm hành chính 200.000đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Tại bản án số 59/2010/HSSTngày 21/5/2010 Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình xử phạt 27 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy Ngày 01/6/2014 Công an phường Vân Giang xử phạt hành chính Cảnh cáo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 06/6/2018 đến ngày 14/6/2018 chuyển tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình đến nay. Có mặt.

Bị hại: Chị Dương Thu P, sinh năm 1989.

Trú tại: Xóm 2, xã Y, huyện Y, tỉnh Ninh Bình. Vắng mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Trần Anh T, sinh năm 1983, trú tại số nhà 460, đường C, phường N, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Vắng mặt.

Người làm chứng:

Chị Ngô Thị H, sinh năm 1988, trú tại: Xóm 8, xã M, huyện Y, tỉnh Ninh Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ ngày 05/6/2018, Trần Đình L và Đoàn Văn K cùng đi uống Methadon tại Trung tâm phòng chống HIV/AIDS tỉnh Ninh Bình. Khi gặp nhau, K nói với L “Anh em mình đi chợ tí” .Ý rủ đi trộm cắp tài sản, L đồng ý. Đoàn Văn K điều khiển xe mô tô hiệu Landa, biển kiểm soát 35N5- 0978 của mình chở L đi lòng vòng quanh thành phố Ninh Bình tìm tài sản để trộm cắp. Trên đường đi do xe mô tô bị hỏng nên cả hai dắt đến cửa hàng Việt L trên đường Lê Hồng Phong, phường Đông Thành để sửa. Sau khi sửa xe xong L, K đi về nhà L ở phố Phúc Chỉnh 1, phường Nam Thành, thành phố Ninh Bình ngồi chơi. Đến khoảng 12 giờ 30 phút ngày 05/6/2018, Trần Đình L bảo Đoàn Văn K chở mình đến Bệnh viện Mắt tỉnh Ninh Bình ở phường Phúc Thành, thành phố Ninh Bình để trộm cắp tài sản. K đồng ý và lấy xe mô tô chở L đi. Khi đến cổng Bệnh viện Mắt, L bảo K đứng ngoài đợi còn mình đi bộ vào khu vực tầng 1, dãy nhà B của Bệnh viện Mắt. Khi Trần Đình L đi đến phòng 108, tầng 1, khu nhà B, L thấy cửa phòng không khóa, bên trong phòng có hai người phụ nữ là chị Dương Thu P sinh năm 1989 ở xã Y, huyện Y và chị Ngô Thị H sinh năm 1988 ở xã M, huyện Yên Mô đang nằm ngủ. Thấy chị P để chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu vàng trên đầu giường chỗ mình ngủ, L đi vào dùng tay phải lấy chiếc điện thoại và bỏ vào túi quần bên phải của mình sau đó đi ra ngoài chỗ K đang đợi. L đưa cho K xem chiếc điện thoại vừa lấy được, sau đó cả hai đi đến cửa hàng điện thoại của anh Trần Anh Tiến sinh năm 1983 ở phường Ninh Sơn, thành phố Ninh Bình bán cho anh Tiến lấy 1.200.000 đồng. Số tiền trên K, L chia nhau mỗi người 600.000 đồng và đã sử dụng tiêu sài cá nhân hết. Ngày 05/6/2018 Trần Đình L và ngày 06/6/2018 Đoàn Văn K đã đến Công an thành phố Ninh Bình xin đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu giữ 01 chiếc điện thoại di động Iphone 6 màu vàng do anh Trần Anh Tiến tự giác giao nộp, thu giữ 01 xe mô tô hiệu Landa, biển kiểm soát 35N5- 0978, cùng 01 đăng kí xe, 01 áo phông cộc tay màu xanh, 02 dép tông màu vàng, 01 giấy phép lái xe ô tô hạng C của K; 01 ba lô màu xanh, 01 mũ lưỡi chai màu cam, 01 áo sơ mi dài tay màu trắng của L.

Tại cơ quan điều tra Trần Đình L và Đoàn Văn K đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nêu trên.

Tại bản Cáo trạng số 107/CT-VKS ngày 10/8/2018 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình đã truy tố bị cáo Trần Đình L và Đoàn Văn K về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị: Hội đồng xét xử tuyên bố: các bị cáo Trần Đình L và Đoàn Văn K phạm tội "Trộm cắp tài sản". Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự xử phạt Trần Đình L từ 12 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 05/6/2018; áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 xử phạt Đoàn Văn K từ 09 đến 12 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 06/6/2018. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Trả lại cho Đoàn Văn K 01 giấy phép lái xe, 01 áo phông cộc tay, 02 dép tông màu vàng; trả lại cho Trần Đình L 01 balô màu xanh, 01 mũ lưỡi chai màu cam, 01 áo sơi mi dài tay màu trắng. Tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước 01 xe mô tô nhãn hiệu Landa biển kiểm soát 35N5-0978 thu giữ của Đoàn Văn K. Truy thu số tiền 1.200.000đồng cụ thể mỗi bị cáo 600.000đồng do hưởng lợi bất chính mà có. Các bị cáo phải chịu án hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu ở trên và đề nghị Hội đồng xét xử, xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 05/6/2018, Đoàn Văn K điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 35N5-0978 chở Trần Đình L đến bệnh viện Mắt tỉnh Ninh Bình ở phường Phúc Thành, thành phố Ninh Bình. Khi đi đến nơi, Đoàn Văn K đợi bên ngoài cảnh giới còn Trần Đình L vào bên trong bệnh viện. Khi đến phòng 108, tầng 1, khu nhà B thấy chị Dương Thu P đang ngủ, L đã lén lút vào chiếm đoạt chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu vàng của chị P đang để trên giường rồi cùng với K mang chiếc điện thoại bán lấy tiền tiêu sài cá nhân. Trị giá chiếc điện thoại đã được Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự xác định là 4.600.000đồng.

Tại phiên tòa các bị cáo cũng đều đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, biên bản sao trích dữ liệu camera tại Bệnh viện mắt, biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú, và các tài liệu khác có trong hồ sơ. Đối chiếu với quy định của pháp luật, đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của các bị cáo Trần Đình L và Đoàn Văn K đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015.

[2]. Hành vi của các bị cáo Trần Đình L và Đoàn Văn K là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân được Luật hình sự bảo vệ. Các bị cáo đều là những người nghiện ma túy, có nhân thân rất xấu. Để thỏa mãn cơn nghiện, các bị cáo đã thống nhất cùng nhau tìm sơ hở để trộm cắp tài sản. Do vậy, cần phải xử lý các bị cáo mức hình phạt tù cách ly với xã hội để có điều kiện cải tạo thành công dân có ích cho xã hội đồng thời cũng nhằm giáo dục pháp luật và phòng ngừa chung. Đối với Trần Đình L là người có tiền án tại Bản án số 145/2016/HSST ngày 10/11/2016 Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích nay lại phạm tội là tái phạm thuộc tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo là người trực tiếp thực hiện tội phạm nên giữ vai trò thứ nhất. Đối với bị cáo K là người giúp sức giữ vai trò thứ hai. Do vậy cần xử phạt bị cáo L có mức hình phạt cao hơn bị cáo K là phù hợp. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, đã đầu thú về hành vi phạm tội của mình là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 nên được xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt.

[3].Đối với anh Trần Anh Tiến khi mua chiếc điện thoại của L và K, anh Tiến không biết điện thoại là do phạm tội mà có, anh Tiến đã tự giác giao nộp chiếc điện thoại cho Cơ quan điều tra do đó không có cơ sở để xử lý đối với anh Tiến về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

[4]. Về trách nhiệm dân sự: Chị Dương Thu P là người bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu đề nghị gì. Anh Tiến cũng không yêu cầu L và K trả lại số tiền đã mua điện thoại. Do vậy vấn đề trách nhiệm dân sự không đặt ra giải quyết.

[5].Về xử lý vật chứng: Đối với 01 giấy phép lái xe, 01 áo phông cộc tay, 02 dép tông màu vàng thu giữ của Đoàn Văn K; 01 balô màu xanh, 01 mũ lưỡi chai màu cam, 01 áo sơ mi dài tay màu trắng thu giữ của Trần Đình L là các tài sản sinh hoạt của các bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho các bị cáo. Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Landa biển kiểm soát 35N5-0978 thu giữ của Đoàn Văn K do là công cụ P tiện phạm tội cần tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước. Đối với số tiền 1.200.000đồng do các bị cáo bán chiếc điện thoại và đã chia nhau mỗi người hưởng 600.000đồng. Đây là tài sản có được do phạm tội nên cần yêu cầu các bị cáo phải nộp lại số tiền đã hưởng lợi nói trên để sung quỹ Nhà nước.

[6] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7].Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo trong thời gian luật định.

[8].Hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là đúng quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51; áp dụng thêm điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với Trần Đình L.

Tuyên bố: Bị cáo Trần Đình L và Đoàn Văn K phạm tội "Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt Trần Đình L 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 05/6/2018.

Xử phạt Đoàn Văn K 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 06/6/2018.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Trả lại cho Đoàn Văn K 01 giấy phép lái xe, 01 áo phông cộc tay, 02 dép tông màu vàng;

Trả lại cho Trần Đình L 01 balô màu xanh, 01 mũ lưỡi chai màu cam, 01 áo sơ mi dài tay màu trắng Tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước 01 xe mô tô nhãn hiệu Landa biển kiểm soát 35N5-0978 thu giữ của Đoàn Văn K.

(Các vật chứng có đặc điểm theo như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 10 tháng 8 năm 2018 giữa Công an Thành phố Ninh Bình và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Ninh Bình).

Buộc các bị cáo Trần Đình L và Đoàn Văn K mỗi bị cáo phải nộp 600.000đồng (Sáu trăm nghìn đồng) để sung quỹ Nhà nước do hưởng lợi bất chính mà có.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án. Buộc các bị cáo Trần Đình L và Đoàn Văn K mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm;

Án xử công khai sơ thẩm, các bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 104/2018/HSST ngày 19/09/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:104/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về