Bản án 103/2018/HNGĐ-ST ngày 12/07/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 103/2018/HNGĐ-ST NGÀY 12/07/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 12 tháng 7 năm 2018 tại phòng xử án, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 1311/2017/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 11 năm 2017 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 218/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 ngày 5 tháng 2018; quyết định hoãn phiên tòa số 204/2018/QĐST-HNGĐ ngày 15 ngày 6 tháng 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị Ngọc H, sinh năm: 1973.

Địa chỉ: 2A Đường A, ấp B, xã C, huyện D, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Ông Vũ Kim T, sinh năm 1969;

Địa chỉ: 2A Đường A, ấp B, xã C, huyện D, Thành phố Hồ Chí Minh. (Bà H có mặt, ông T vắng mặt không có lý do tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn ngày 26/10/2017, bản tự khai ngày 21/11/2017 và tại phiên tòa nguyên đơn bà Huỳnh Thị Ngọc H trình bày:

Bà và ông Vũ Kim T tự quen biết, tìm hiểu nhau và bắt đầu chung sống từ năm 1993, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã E, thị xã F, tỉnh G. Từ năm 1996 thì bà và ông T chuyển về xã H, huyện D sinh sống cho đến nay. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, đôi lúc có cãi nhau nhưng mâu thuẫn không lớn, đến đầu năm 2007 thì mâu thuẫn giữa bà và ông T trở nên trầm trọng, nguyên nhân do tính tình không hòa hợp, ông T thường đi làm xa, vợ chồng không thường xuyên gặp nhau, không chia sẽ được với nhau nên tình cảm ngày càng lạnh nhạt. Hiện nay bà và ông T sống chung một nhà nhưng đã ly thân với nhau, mỗi người đều có cuôc sống riêng từ năm  2007 cho đến nay. Nay bà không còn tình cảm với ông T, đời sống chung không thể hàn gắn nên bà yêu cầu được ly hôn với ông T.

Về con chung: Bà và ông T có 02 con chung tên Vũ Huỳnh D, sinh ngày 21/5/1995 (đã trưởng thành) và Vũ Huỳnh Nguyên T1, sinh ngày 02/5/2002. Khi ly hôn bà yêu cầu được nuôi trẻ T1, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà xác nhận không có. Ngoài ra, bà không có ý kiến và yêu cầu gì khác.

Bị đơn ông Vũ Kim T vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biếu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến giải quyết vụ án về nội dung như sau:

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 147, Điều 220, Điều 227, Điều 228, Điều 267 Bộ luật tố tụng dân sự; căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cụ thể:

- Về quan hệ vợ chồng: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Huỳnh ThịNgọc H đối với ông Vũ Kim T.

- Về con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử giao trẻ Vũ Huỳnh Nguyên T1, sinh ngày 02/5/2002 cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với ông T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Bà Huỳnh Thị Ngọc H khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Vũ Kim T. Theo kết quả xác minh của Công an xã Bình Hưng huyện Bình Chánh xác nhận ông Vũ Kim T có hộ khẩu thường trú và hiện còn sinh sống tại địa chỉ 2A Đường A, ấp B, xã C, huyện D, Thành phố Hồ Chí Minh nên căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

 [2] Về sự vắng mặt của đương sự: Ông Vũ Kim T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt ông T theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

 [3] Về quan hệ vợ chồng: Bà Huỳnh Thị Ngọc H và ông Vũ Kim T chung sống có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã E, thị xã F, tỉnh G cấp giấy chứng nhận kết hôn số 18.HT Quyển số I.93 ngày 05/7/1993. Do đó, có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa bà H và ông T là hôn nhân hợp pháp được quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

 [4] Khoản 1 Điều 19 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.”

 [5] Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “....Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được.”

 [6] Theo kết quả xác minh của Ủy ban nhân dân xã H, huyện D, Thành phố Hồ Chí Minh về tình trạng hôn nhân của bà H và ông T cho biết: Bà H và ông T sống ly thân khoảng 10 năm, vẫn sống tại địa chỉ 2A Đường A, ấp B, xã C, huyện D, Thành phố Hồ Chí Minh, có 02 con chung và hiện đang sống cùng gia đình, địa phương không nhận được đơn yêu cầu giải quyết mâu thuẫn hôn nhân giữa bà H và ông T.

 [7] Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, bà H xác nhận bà và ông T chung sống không hạnh phúc, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, ông bà đã sống ly thân từ năm 2007 cho đến nay. Mặt khác, ông T đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng nhưng vẫn không đến Toà án tham gia tố tụng để Toà án hoà giải, động viên hai bên đoàn tụ, hàn gắn tình cảm vợ chồng. Hiện nay ông T và bà H vẫn còn sống chung nhà nhưng đã ly thân với nhau từ năm 2007 cho đến nay, điều này chứng tỏ giữa ông T và bà H đã không còn tình cảm với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được thì cuộc sống chung cũng không còn ý nghĩa. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà H đối với ông T.

 [8] Về con chung: Có 02 (hai) con chung tên Vũ Huỳnh D, sinh ngày21/5/1995 và Vũ Huỳnh Nguyên T1, sinh ngày 02/5/2002.

 [9] Khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Vợ chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyếtđịnh giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt củacon; nếu con từ đủ 7 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

 [10] Tại biên bản ghi nhận ý kiến ngày 29/11/2017 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đối với trẻ Vũ Huỳnh Nguyên T1 thể hiện trẻ T1 có nguyện vọng sống với bà H.

 [11] Ông T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án cũng như thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải nêu rõ yêu cầu của bà H, nhưng ông T không có văn bản nêu rõ ý kiến của mình đối với yêu cầu của bà H và ông cũng không đến Tòa án tham dự các buổi hòa giải, phiên tòa xét xử mà vắng mặt không có lý do. Tòa án căn cứ vào các chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án để giải quyết. Tại phiên tòa bà H xác nhận hiện nay trẻ T1 và Duy đang sống cùng với bà, hàng ngày bà là người chăm sóc, nuôi dạy hai con. Vũ Huỳnh D, sinh ngày 21/5/1995, tính đến thời điểm hiện tại thì đã trưởng thành nên Hội đồng xét xử không xém xét. Do đó, nhằm bảo đảm quyền lợi về mọi mặt cho trẻ T1 Hội đồng xét xử quyết định giao trẻ T1 cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng.

 [12] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, bà H xác nhận không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung, xét thấy đây là sự tự nguyện của đương sự và không trái quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với ông T.

 [13] Về tài sản chung và nợ chung: Bà H xác nhận bà và ông T không có tài sản chung, nợ chung. Ông T vắng mặt không thể hiện ý kiến, yêu cầu của ông về vấn đề tài sản chung, nợ chung giữa ông với bà H nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết vấn đề tài sản chung và nợ chung giữa bà H và ông T trong vụ án này, nếu sau này các đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết trong một vụ án khác.

 [14] Về án phí: Bà Huỳnh Thị Ngọc H chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1Điều 39, Điều 91, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều228; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 8, Điều 9, khoản 1 Điều 19, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ vợ chồng: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Huỳnh ThịNgọc H đối với ông Vũ Kim T.

1.1. Bà Huỳnh Thị Ngọc H được ly hôn với ông Vũ Kim T.

1.2. Giấy chứng nhận kết hôn số 18.HT Quyển số I.93 do Ủy ban nhân dân xã E, thị xã F, tỉnh G cấp ngày 05/7/1993 không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung: Bà H và ông T có 02 (hai) con chung tên Vũ Huỳnh D, sinh ngày 21/5/1995 (đã trưởng thành) và Vũ Huỳnh Nguyên T1, sinh ngày 02/5/2002.

2.1. Giao trẻ Vũ Huỳnh Nguyên T1, sinh ngày 02/5/2002 cho bà Huỳnh Thị Ngọc H trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với ông T.

2.2. Ông T có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản. Vì lợi ích con chung, khi cần thiết các bên có quyền xin thay đổi việc nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét trong vụ án này, nếu sau này các đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết trong một vụ án khác.

4. Về án phí: Bà Huỳnh Thị Ngọc H chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) mà bà H đã nộp theo biên lai thu số AA/2016/0030742 ngày 10/11/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà H đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Bà H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Ông T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

6. Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 103/2018/HNGĐ-ST ngày 12/07/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:103/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về