TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG ĐIỀN, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU
BẢN ÁN 103/2017/HSST NGÀY 29/12/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 29/12/2017 tại Tòa án nhân dân huyện Long Điền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 93/2017/TLST-HS ngày 07/11/2017 đối với:
Bị cáo Nguyễn Văn T, sinh năm 1990, tại Bà Rịa-Vũng Tàu; HKTT: Khu phố Đ, thị trấn H, huyện L, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; Nghề nghiệp: lái xe; Trìnhđộ học vấn: 9/12; Con ông Nguyễn Văn T và bà Ngô Thị Thanh T (đã chết); Vợ, con: không có;
Tiền án:
- Bản án số 17/2013/HSST ngày 06/3/2013 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xử phạt Nguyễn Văn T 10 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Chấp hành xong hình phạt ngày 02/8/2013.
- Bản án số 206/2014/HSST ngày 18/9/2014 của Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xử phạt Nguyễn Văn T 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt ngày 20/9/2016.
Tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 19/7/2017, chuyển tạm giam ngày 21/7/2017 theo Lệnh tạm giam số 42/LTG ngày 21/7/2017 của cơ quan CSĐT Công an huyện L. (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Văn T là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy. T là anh em họ với Huỳnh Chí H, cách ngày bị bắt quả tang (19/7/2017) khoảng 2-3 ngày, T lên nhà H chơi và ở lại nhà H thuộc ấp P, xã T, huyện L. Theo lời T khai, trong thời gian này, T đi bán ma túy (Heroin) dùm cho H và được H cho ma túy để sử dụng. Cách thức cụ thể như sau: Khi có người gọi điện thoại cho H theo số 01266599xxx hỏi mua ma túy thì H nghe máy, H đồng ý bán rồi hẹn địa điểm giao nhận ma túy. Sau đó, H đưa ma túy, điện thoại di động và xe mô tô biển số 72K1-006.25 của H cho T để T đi giao ma túy lấy tiền về đưa lại cho H. Vào khoảng 08 giờ ngày 18/7/2017, khi T và H đang ở trong rẫy (khu vực đường vào hầm cát Đông Nam thuộc ấp N, xã T, huyện L) thì Đỗ Tấn T gọi điện thoại cho H hỏi mua 100.000đ ma túy, H nghe máy đồng ý bán và hẹn Th chạy vào nơi T và H đang làm rẫy để giao nhận ma túy. Sau khi nghe điện thoại xong, H đưacho T 01 tép ma túy cùng điện thoại di động của H cho T, T lấy ma túy và điện thoại đi lên đường đứng chờ Th đến để giao ma túy. Khoảng 5 đến 10 phút sau, Th chạy xe đến gặp T, T đưa cho Th 01 tép ma túy và nhận của Th 100.000đ. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, khi T và H đang ở nhà của H, Th tiếp tục gọi điện thoại cho H hỏi mua 200.000đ ma túy, H đồng ý bán và hẹn Th đến khu vực nghĩa địa H thuộc xã T, huyện L để giao nhận ma túy. Lúc này, H đưa cho T 02 tép ma túy và điện thoại di động của H cho T rồi đưa chìa khóa xe mô tô biển số 72K1-006.25 để T đi giao ma túy. T điều khiển xe mô tô đến điểm hẹn, khi này Th cũng vừa chạy đến, T đưa cho Th 02 tép ma túy và nhận của Th 200.000đ. Ngoài ra, T còn bán ma túy cho các đối tượng khác không rõ lai lịch ở xã T, huyện L.
Đến khoảng 06 giờ ngày 19/7/2017, H điều khiển xe mô tô biển số 72K1- 006.25 chở T đi qua khu vực Bến Đ thuộc thành phố V mua ma túy về sử dụng và bán lại cho những người nghiện ma túy. Đến nơi, T đưa cho H số tiền 260.000đ hùn với H để mua ma túy rồi đứng ở ngoài giữ xe. H lấy tiền của T rồi hùn thêm tiền đi vào gặp một người thanh niên (không rõ nhân thân lai lịch) mua400.000đ được một gói ma túy. Sau khi mua được ma túy, cả hai điều khiển xe mô tô về lại nhà H tại ấp P, xã T, huyện L. Trên đường về T và H đến khu vực Chợ mới H, huyện L mua kim tiêm để sử dụng ma túy rồi điều khiển xe về nhà H. Đến nơi, H đem số ma túy vừa mua được đi vào trong phòng ngủ của mình đóng cửa lại. Một lúc sau, H đi ra đưa cho T 01 gói ma túy (theo T khai đây là số ma túy T hùn số tiền 260.000đ mua để sử dụng và bán lại cho người người nghiện ma túy) và 09 tép ma túy để T đi bán. T lấy một ít ma túy trong gói ma túy ra sử dụng. Đến khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, sau khi sử dụng xong T bỏ gói ma túy còn lại vào trong túi quần và mang theo 09 tép ma túy rồi điều khiển xe mô tô biển số 72K1-006.25 chạy ra đến khu vực trước nhà H thì bị cơ quan công an kiểm tra bắt quả tang và thu giữ số ma túy trên.
Qua làm việc H chỉ thừa nhận: Vào sáng ngày 19/7/2017, H điều khiển xe mô tô chở T đi qua thành phố V mua ma túy, T có hùn 260.000đ để mua ma túy sử dụng. H lấy tiền của T và hùn thêm vào 140.000đ, tổng cộng 400.000đ để mua ma túy. Sau khi mua được ma túy, H và T đi về đến gần chợ L có ghé vào mua kim tiêm. Sau đó, T chở H vào khu vực nghĩa trang K, tại đây H lấy số ma túy vừa mua được chia ra 02 phần, đưa cho T 01 phần, H lấy số ma túy của mình ra sử dụng một ít, sau đó cả hai đi về nhà của H. Lúc này, T mượn xe của H nói đi công chuyện, khi T chạy xe ra đến cổng thì bị công an bắt. Khi thấy cơ quan công an bắt T, H đóng hết cửa nhà lại và sử dụng hết số ma túy mua về còn lại.
Vật chứng vụ án gồm:
- 09 đoạn ống nhựa màu trắng hàn kín bên trong có chứa chất bột màu trắng và 01 gói nylon hàn kín bên trong có chứa chất bột màu trắng, được niêm phong trong một phong bì màu trắng, sau khi gửi giám định Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã niêm phong lại vụ số 169 ngày 20/7/2017 (T khai đây là số ma túy T tàng trữ để sử dụng và bán lại cho những người nghiện ma túy); 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen.
- 01 chiếc xe mô tô biển số 72K1-006.52, đã trao trả lại cho chủ sở hữu anh Huỳnh Quốc Duy (là anh ruột của Huỳnh Chí H).
Tại kết luận giám định số 169/GĐ-PC54 ngày 20/7/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu kết luận: Chất bột màu trắng chứa trong 09 (chín) đoạn ống nhựa màu trắng - hàn kín hai đầu và trong 01 (một) gói nylon hàn kín, được niêm phong trong 01 phong bì màu trắng, có hình dấu của Công an xã T và Công an huyện L, cùng các chữ ký ghi họ tên: Nguyễn Văn T, Lê Ngọc S, Lê Hòa T, Phan Văn N, gửi đến giám định có trọng lượng là 0,3639 gam, là chất ma túy, loại Heroine.
Đối với Huỳnh Chí H không thừa nhận việc giao ma túy cho Nguyễn Văn T để đi bán giùm cho H. Xét thấy ngoài lời khai của T, hiện không có chứng cứ nào khác để xác định H có hành vi mua bán trái phép chất ma túy nên không đủ cơ sở để xử lý.
Huỳnh Chí H và Đỗ Tấn Th có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Tòa án nhân dân huyện L đã ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa H và Th vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Hiện cả hai đang chấp hành quyết định tại cơ sở tư vấn và điều trị nghiện ma túy tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Tại bản cáo trạng số 93/QĐ-KSĐT ngày 07/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện L đã truy tố Nguyễn Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, p khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999.
Tại phiên tòa:
- Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, không tranh luận và xin giảm nhẹ hình phạt.
- Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, p khoản 2 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt bị cáo từ 08 đến 09 năm tù; Về vật chứng đề nghị áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy chất ma túy thu giữ trong vụ án; Tịch thu sung quỹ 01 điện thoại Nokia màu đen.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, không có người nào khác có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với Biên bản phạm tội quả tang, kết luận giám định, lời khai người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có cơ sở xác định vào khoảng 08 giờ 00 phút ngày 18/7/2017, tại khu vực rẫy thuộc ấp N, xã T, huyện L, Nguyễn Văn T có hành vi bán 01 tép ma túy cho Đỗ Tấn Th với giá 100.000đ. Đến 14 giờ cùng ngày, T tiếp tục có hành vi bán trái phép 02 tép ma túy cho Th với giá 200.000đ tại khu vực nghĩa địa H thuộc xã T, huyện L. Ngoài ra T còn khai đã bán ma túy cho nhiều đối tượng khác không rõ lai lịch ở xã T, huyện L. Đến khoảng 10 giờ 30 phút ngày 19/7/2017, T bị phát hiện bắt quả tang đang tàng trữ 09 tép ma túy và 01 gói ma túy, theo kết quả giám định có trọng lượng là 0,3639 gam, là chất ma túy, loại Heroine. T khai mục đích tàng trữ để bán lại cho những người sử dụng trái phép chất ma túy, phần lời để sử dụng. Năm 2013 T bị Tòa án nhân dân huyện L xử phạt 10 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” chưa được xóa án tích thì năm 2014 tiếp tục phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” bị Tòa án nhân dân Tp. Vũng Tàu xử phạt 03 năm tù, chấp hành xong ngày 20/9/2016 chưa được xóa án tích. Như vậy, có đủ căn cứ kết luận Nguyễn Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, p khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999.
[3] Xét thấy, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến các qui định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy mà còn gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương và là nguyên nhân dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật khác. Bị cáo phạm tội với tình tiết phạm tội nhiều lần và tái phạm nguy hiểm nên cần phải xử phạt bị cáo mức án thật nghiêm để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Xét bị cáo thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải nên áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[4] Xử lý vật chứng:
- Chất ma túy được niêm phong trong 01 phòng bì màu trắng có hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, được niêm phong vụ số 169 ngày 20/7/2017 là chất cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy;
- 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen bị cáo dùng vào việc liên hệmua bán ma túy nên tịch thu sung quỹ;
[5] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm b, p khoản 2 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999.
Xử phạt: Nguyễn Văn T 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/7/2017.
Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy chất ma túy được niêm phong trong 01 phong bì màu trắng có hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, được niêm phong vụ số 169 ngày 20/7/2017.
- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen. (Các vật chứng trên hiện Chi cục THADS huyện L đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng số 07/BB-THA ngày 07/11/2017).
- Án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 103/2017/HSST ngày 29/12/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 103/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Long Điền - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/12/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về