TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ L, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 102/2020/HSST NGÀY 18/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 16 tháng 11 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã L, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 107/2020/TLST-HS ngày 16 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:
Ngô B, Giới tính: Nam ; Tên gọi khác: Mầm; Sinh 1996 tại: Bình Thuận; Nơi đăng ký HKTT: thôn Phước Tiến, T, L, Bình Thuận; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Nghề nghiệp: Thợ hồ; Trình độ học vấn: 06/12; Cha: Ngô Thanh Ng, sinh 1972; Mẹ: Nguyễn Thị Quỳnh T, sinh 1973; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai; Vợ: chưa có, hiện chung sống với Bùi Thị Như Q, sinh 2001; Con: có 01 con, sinh 2017.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị bắt tạm giữ từ ngày 26/6/2020 đến ngày 05/7/2020, Ngô B hiện đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.
Bị cáo có mặt.
*Vật chứng cần đưa ra xem xét tại phiên tòa: Không.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 25/6/2020, Ngô B, điều khiển xe mô tô đến khu vực ngã tư Quân Cảnh thuộc phường Tân Thiện, L gặp một người tên Tèo (không rõ lai lịch) mua 02 bịch ma túy đá với số tiền 2.700.000 đồng để sử dụng. Sau khi mua được ma túy, Bảo bỏ vào trong túi quần sau bên trái rồi điều khiển xe chạy trên đường Lý Thái Tổ đến xã Tân Tiến, L để tìm bạn; khi đi đến khu vực gần Resort Đất Lành thì bị Cơ quan CSĐT Công an thị xã L yêu cầu dừng xe để kiểm tra, phát hiện thấy phía sau túi quần của B có 02 gói ma túy nên Cơ quan CSĐT Công an thị xã L lập biên bản phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng gồm: 02 bịch nilon màu trắng có nhíp kéo một đầu màu đỏ gồm: 01 bịch có kích thước (7,5x4,5)cm và 01 bịch có kích thước (8x5,5)cm, bên trong đều có chứa các hạt tinh thể dạng rắn màu trắng.
Tại bản Kết luận giám định số 718 ngày 03/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận kết luận: Mẫu M gửi giám định có khối lượng 4,7009 gam, là Methamphetamine.
Về vật chứng vụ án: Vật chứng thu giữ còn lại sau giám định là 4,2818 gam mẫu M được niêm phong trong bì số 718 của Phòng kỹ thuật hình sự- công an tỉnh Bình Thuận, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung H, hiện Chi cục Thi hành án dân sự thị xã L đang quản lý.
Sau khi phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ những chứng cứ xác định có tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân bị cáo; tội danh, hình phạt, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã L giữ quyền công tố kết luận: Giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung bản cáo trạng số: 101/CT-VKS ngày 06/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã L truy tố bị cáo Ngô B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Ngô B phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015. Phạt bị cáo Ngô B mức án từ 3 năm đến 4 năm tù. Biện pháp tư pháp: Áp dụng Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 718 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.
Ý kiến của bị cáo: Thừa nhận hành vi tàng trữ ma túy và đồng ý với nội dung luận tội của Kiểm sát viên nên không có ý kiến tranh luận.
* Bị cáo Ngô B nói lời sau cùng: Bị cáo thấy hành vi của mình là sai trái, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung: Tại phiên tòa, xét thấy lời khai của bị cáo Ngô B khai nhận phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, đối chiếu với những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở và căn cứ pháp lý kết luận: Khoảng 23 giờ ngày 25/6/2020, tại đoạn đường Lý Thái Tổ thuộc thôn Hiệp Tiến, xã Tân Tiến, L, Cơ quan CSĐT Công an thị xã L bắt quả Ngô B có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, khối lượng 4,7009gam là Methamphetamine với mục đích sử dụng cho bản thân.
Theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định như sau:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm...
a)...;
c) Heroin, Cocaine, Methamphetamine,... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam; ...”
Đối chiếu với quy định trên, hành vi của bị cáo Ngô B đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã L truy tố đối với bị cáo Ngô B về tội danh, Điều luật là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Bị cáo Ngô B là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được mức độ nguy hiểm và tác hại của ma túy gây ra cho người sử dụng và gây nhiều hệ lụy xấu cho xã hội nhung bị cáo bất chấp hậu quả xảy ra. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương, cần phải xử lý nghiêm trước pháp luật nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Ngô B khai báo thành khẩn ăn năn hối cải, thu nhập thấp và không ổn định, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[6] Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[7] Về xử lý vật chứng: 2 Gói nylon đã cắt lấy mẫu và 4,2818 gam mẫu M còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 718, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận, cần tịch thu tiêu hủy.
[8] Về án phí: Bị cáo Ngô B phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tuyên bố: Bị cáo Ngô B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt Bị cáo Ngô B 3 năm 6 tháng tù (bằng chữ: ba năm sáu tháng tù), thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt thi hành án, được khấu trừ thời gian giam giữ trước đó từ ngày 26/6/2020 đến ngày 05/7/2020.
Áp dụng: Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106, Điều 135, Điều 136, Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015;
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 718 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/10/2020 giữa Công an thị xã L và Chi cục thi hành án dân sự thị xã L.
Về án phí: Bị cáo Ngô B phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung.
Bản án 102/2020/HSST ngày 18/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 102/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị Xã La Gi - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về