TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 102/2019/HNGĐ-ST NGÀY 20/08/2019 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN
Ngày 20 tháng 08 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 162/2018/TLST-HNGĐ ngày 25/5/2018, về việc: "Tranh chấp về Hôn nhân gia đình- Xin ly hôn"theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 304/2018/QĐXX-ST ngày 13 tháng 07 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 177/2018/QĐHPT-HNGĐ ngày 31/7/2018 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Trần Thị H, sinh năm 1984(Có mặt).
Địa chỉ: Ấp Tân Đông, thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang
Bị đơn : Anh Chau T, sinh năm 1983(Vắng mặt).
Địa chỉ: Ấp Tân Đông, thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện,bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn chị Trần Thị H trình bày:
Chị Trần Thị H và anh Chau T chung sống với nhau từ năm 1998, không tổ chức đám cưới nhưng có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật vào ngày 13/10/2002. Thời gian đầu chung sống với nhau rất H phúc và đã có 04 con chung. Đến năm 2016 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cải nhau, bất đồng quan điểm sống. Nguyên nhân là do anh Chau T thường xuyên ăn nhậu về kiếm chuyện gây gỗ, đập phá đồ đạc trong nhà, thậm chí có lúc đánh chị H, không quan tâm gia đình từ đó mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Vì thương con nên chị H cố gắng chịu đựng, đã khuyên anh Chau T rất nhiều lần nhưng anh Chau T vẫn không thay đổi. Chị H và anh Chau T đã không còn sống chung từ năm 2016 cho đến nay. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn và kéo dài nên chị H xin được ly hôn với anh Chau T.
Về quan hệ con chung: Có 04 con chung tên Chau Thị T, sinh ngày 17/6/2003, Chau Thị N, sinh ngày 03/3/2005, Chau Thị Q, sinh ngày 01/6/2007 và Chau Thị Gia L, sinh năm 2013 hiện các con đang sống với chị H. Sau khi ly hôn thì chị H yêu cầu tiếp tục nuôi dưỡng các con, không yêu cầu anh Chau T cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nợ chung: Không có
Anh Chau T trong quá trình giải quyết vụ án đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý, thông báo hòa giải và đã được triệu tập hợp lệ đến Tòa án để làm việc nhưng anh Chau Tvẫn vắng mặt không lý do nên không ghi được ý kiến của anh Chau Tvà không tiến hành hòa giải được.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]Về hình thức: Chị Trần Thị H có đơn xin ly hôn anh Chau T có địa chỉ cư trú tại ấp Tân Đông, thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.
Tại phiên tòa hôm nay, anh Chau T đã được Tòa án tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa và triệu tập hợp lệ để dự phiên Tòa, nhưng anh Chau T vẫn vắng mặt, căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn anh Chau T.
[2] Về nội dung: Nhận thấy chị Trần Thị H và anh Chau T sống chung với nhau năm 1998 có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Vợ chồng anh chị chung sống với nhau hạnh phúc thời gian đầu. Thời gian gần đây, đã xảy ra mâu thuẫn, cả hai thường xuyên cự cãi và không còn sống chung từ năm 2016 đến nay. Quá trình Tòa án thụ lý giải quyết, đã tạo điều kiện cho các bên hàn gắn nhưng anh Chau T đều không đến, điều này thể hiện tình trạng hôn nhân giữa chị Trần Thị H và anh Chau T mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó có đủ căn cứ để áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H.
Về con chung: Xét thấy anh Chau T và chị H sống chung với nhau có được 04 con chung tên Chau Thị T, sinh 17/6/2003, Chau Thị N, sinh ngày 03/3/2005, Chau Thị Q, sinh ngày 01/6/2007 và Chau Thị Gia L, sinh năm 2013, hiện các con đang sống với chị H. Sau khi ly hôn chị H yêu cầu tiếp tục nuôi dưỡng các con chung, không yêu cầu anh Chau Tcấp dưỡng nuôi con. Xét yêu cầu nuôi con của chị H thì thấy trong quá trình chung sống với chị H, chị H nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con rất tốt, mặt khác hiện nay các con có nguyện vọng sau khi cha mẹ ly hôn thì các con muốn sống với mẹ, do đó để tạo điều kiện cho các cháu ổn định về tâm lý và sinh hoạt hàng ngày nên chấp nhận cho chị H được tiếp tục nuôi dưỡng 04 con chung, anh Chau T không phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.
Về nợ chung: Ghi nhận chị H xác định không có nợ chung nhưng sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, nếu có nguyên đơn khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của anh chị trong thời kỳ sống chung thì chị H và anh Chau T vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.
[3]Về án phí sơ thẩm: Chị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 110 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên Xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Trần Thị H.
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị H được ly hôn với anh Chau T.
- Về quan hệ con chung: Chị Trần Thị H được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục các con chung tên Chau Thị T, sinh 17/6/2003, Chau Thị N, sinh ngày 03/3/2005, Chau Thị Q, sinh ngày 01/6/2007 và Chau Thị Gia L, sinh ngày 17/2/2013. Anh Chau T không phải cấp dưỡng nuôi con.
Anh Chau T không trực tiếp nuôi con chung nhưng anh có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở anh Chau T thực hiện quyền này.
Vì lợi ích của con, khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án xem xét và quyết định việc thay đổi trực tiếp nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.
- Về nợ chung: Ghi nhận chị H xác định không có nợ chung nhưng sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, nếu có nguyên đơn khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của anh chị trong thời kỳ sống chung thì chị H và anh Chau T vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.
- Về án phí: Chị Trần Thị H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001151 ngày 15/5/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn.
Đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 102/2018/HNGĐ-ST ngày 20/08/2018 về tranh chấp xin ly hôn
Số hiệu: | 102/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 20/08/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về