Bản án 10/2021/HS-ST ngày 13/01/2021 về tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH - TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 10/2021/HS-ST NGÀY 13/01/2021 VỀ TỘI LÀM GIẢ TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 13 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 188/2020/TLST-HS ngày 04 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 181/2020/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2021/HSST-QĐ ngày 05/01/2021 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Sơn T; sinh năm: 1994 tại Bình Định; nơi đăng ký thường trú: xã A, huyện B, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: Đại học; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; con ông: Nguyễn Hữu C, sinh năm 1970 và bà: Trương Thị T, sinh năm 1974; vợ, con: không có; tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt, tạm giữ, tạm giam: không. Bị cáo tại ngoại. Có mặt.

2. Hồ Gia Đ; sinh năm: 1982 tại Tp. Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú:

phường C, quận D, Tp. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: kinh doanh; trình độ học vấn:

3/12; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Hoa; con ông: Hồ A S, sinh năm 1954 và bà: Tchen Nhì M, sinh năm 1957; có vợ: Nguyễn Thị Bích N, sinh năm 1982 và 02 con: lớn nhất sinh năm 2017, nhỏ nhất sinh năm 2019; tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt, tạm giữ, tạm giam: không. Bị cáo tại ngoại. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Hồ Gia Đ: Ông Nguyễn Đức Nam - Luật sư thuộc Công ty Luật TNHH Phú Định thuộc Đoàn Luật sư Tp. Hồ Chí Minh. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Hồ A S, sinh năm 1954, nơi cư trú: phường C, quận D, Tp. Hồ Chí Minh. Có đơn xin vắng mặt.

2. Bà Tchen Nhì M, sinh năm 1957, nơi cư trú: phường C, quận D, Tp. Hồ Chí Minh. Có đơn xin vắng mặt.

3. Bà Lê Thị C, sinh năm 1959, nơi cư trú: 86 Âu Dương Lân, Phường 3, Quận 8, Tp. Hồ Chí Minh. Có đơn xin vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng tháng 3/2019, Hồ Gia Đ cần vay tiền ngân hàng để kinh doanh nên quen biết với Nguyễn Sơn T (nhân viên tín dụng của Phòng Giao dịch Bắc Hải – Ngân hàng Eximbank chi nhánh Quận I). Đ được T hướng dẫn làm thủ tục vay vốn bằng cách thế chấp căn nhà do cha mẹ Đ (ông Hồ A S và bà Tchen Nhì M) đứng tên sở hữu tại địa chỉ 671/8 đường X, phường C, quận D. Tuy nhiên, mẹ của Đ là bà Tchen Nhì M không đồng ý ký hợp đồng thế chấp căn nhà này. Khi Đ nói lại với T vấn đề này thì T đã bàn với Đ làm giả căn cước công dân của bà M để làm được thủ tục vay tiền ngân hàng. Đ đồng ý.

Thông qua mạng xã hội Zalo, T liên lạc với tài khoản “N Nguyễn” đặt làm giả 01 căn cước công dân với giá 4.500.000 đồng. Tiếp theo, T nói Đ nhờ mẹ vợ của Đ là bà Lê Thị C thay thế bà M khi làm thủ tục công chứng hợp đồng thế chấp tại văn phòng công chứng. Đ đồng ý và mượn chứng minh nhân dân, 01 tấm hình 3x4cm của bà C với lý do đi công việc. Sau đó, Đ gửi qua Zalo cho T hình ảnh 02 mặt căn cước công dân của bà M, 02 mặt chứng minh nhân dân của bà C và 01 tấm hình 3x4 của bà C để T làm giả căn cước công dân giả mang thông tin của bà M nhưng hình ảnh của bà C. T chuyển các thông tin trên cho tài khoản “N Nguyễn” qua hộp thư điện tử thegame043@gmail.com và gửi số tiền 4.500.000 đồng vào tài khoản ngân hàng Sacombank số 060210318995 mang tên Ngô Văn T. Đến ngày 22/7/2019, T nhận được căn cước công dân giả mang tên Tchen Nhì M từ tài khoản “Nam Nguyễn”. T thông báo cho Đ biết và thống nhất ngày 26/7/2019 cùng đến Phòng Công chứng Y tại Phường E, quận F để làm thủ tục công chứng hợp đồng thế chấp tài sản. Đ nói cho ông Hồ A S, bà Lê Thị C đến Phòng Công chứng số 4 để làm thủ tục bảo lãnh ngân hàng cho Đ. Ông S và bà C đồng ý đi cùng. Trước khi vào làm thủ tục công chứng, T đưa cho Đ căn cước công dân giả mang tên bà M. Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 26/7/2019, tại Phòng Công chứng Y, Đ đã nộp bộ Hồ sơ Hợp đồng thế chấp tài sản. Chị Nguyễn Thị Thu H (chuyên viên phòng công chứng) khi tiếp nhận hồ sơ đã kiểm tra và phát hiện thẻ căn cước công dân số 079157002045 mang tên Tchen Nhì M nghi vấn là giả nên đã báo cho Công an Phường 4, quận Tân Bình tiếp nhận và giải quyết.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Sơn T và Hồ Gia Đ đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nêu trên. Ngoài ra, Đ khai nhận khi đến Phòng công chứng số 4, Đ chỉ nói cho ông S và bà C là đi cùng để làm thủ tục bảo lãnh cho Đ làm thủ tục vay tiền ngân hàng, chứ không nói cho hai người này biết việc sử dụng căn cước công dân giả mang tên bà Tchen Nhì M và bà C sẽ là người đóng giả bà M.

Ông Hồ A S trình bày: Ông và vợ là bà Tchen Nhì M cùng đứng tên sở hữu căn nhà tại số 671/8 đường X, phường C, quận D. Khi Đ nói muốn thế chấp căn nhà này tại ngân hàng để có vốn kinh doanh thì ông đồng ý, bà M chưa đồng ý. Ngày 26/7/2019, Đ có nhờ ông cùng đến Phòng Công chứng Y để làm thủ tục bảo lãnh cho Hợp đồng vay tiền của Đ nên ông đồng ý. Tại Công an Phường 4, quận Tân Bình, ông mới biết Đ làm giả căn cước công dân của bà M để làm thủ tục thế chấp tài sản. Ông không được Đ cho biết trước và nhìn thấy căn cước này, cũng chưa ký tên vào hợp đồng thế chấp tài sản tại văn phòng công chứng.

Bà Lê Thị C trình bày: Khi mượn chứng minh nhân dân và 01 tấm hình 3x4 của bà, Đ nói là mượn đi công việc, bà không biết Đ sử dụng để làm giả căn cước Ngày 26/7/2019, Đ có nhờ bà cùng đến Phòng Công chứng số 4 để làm thủ tục bảo lãnh cho Hợp đồng vay tiền của Đ nên bà đồng ý. Tại Công an Phường 4, quận Tân Bình, bà mới biết Đ làm giả căn cước công dân của bà M để làm thủ tục thế chấp tài sản. Bà hoàn toàn không biết Đ đã dùng hình ảnh của bà để làm giả căn cước công dân mang tên bà M. Tại Phòng công chứng Y, bà cũng chưa ký tên vào hợp đồng thế chấp tài sản cho Đ.

Bà Tchen Nhì M trình bày: Khi Đ nói muốn thế chấp nhà tại ngân hàng lấy vốn kinh doanh thì bà chưa đồng ý. Bà không biết Đ đã làm giả căn cước công dân mang tên bà để đi làm thủ tục công chứng hợp đồng thế chấp tài sản. bà không đến Phòng công chứng số 4 vào ngày 26/7/2019 và có yêu cầu không xử lý hình sự đối với Hồ Gia Đ cùng những người liên quan.

Như vậy, do ông Hồ A S và bà Lê Thị C không biết và không tham gia vào việc làm giả căn cước công dân của bà Tchen Nhì M, cũng chưa ký tên vào Hợp đồng thế chấp tài sản tại Phòng Công chứng Y nên không có căn cứ xử lý với vai trò đồng phạm.

Qua xác minh tại Phòng Giao dịch Bắc Hải – Ngân hàng Eximbank chi nhánh Quận I, Hồ sơ vay tiền của Hồ Gia Đ đã được chấp thuận nhưng ngân hàng chưa giải ngân số tiền vay cho Đ.

Xác minh số tài khoản Ngô Văn T tại Ngân hàng Sacombank, Ngô Văn T có chứng minh nhân dân 281914225, địa chỉ thường trú: 35/76 Phú L, khu phố 4, phường I, Tp. K, tỉnh Bình Dương. Kết quả xác minh tại Tổng công ty viễn thông Mobifone về số điện thoại 0899221356 của tài khoản Zalo “N Nguyễn” có chủ thuê bao là Ngô Văn T, thường trú: 35/76 Phú L, khu phố 4, phường I, Tp. K, tỉnh Bình Dương. Tuy nhiên, xác minh không có địa chỉ trên và không có nhân khẩu tên Ngô Văn T trên địa bàn phường I. Xác minh tại Phòng PC06 – Công an tỉnh Bình Dương về số chứng minh nhân dân 281914225, kết quả không có số chứng minh nhân dân trên. Do chưa xác định được nhân thân, lai lịch của Ngô Văn T và tài khoản Zalo “N Nguyễn” nên tiếp tục điều tra, làm rõ và xử lý sau.

Vật chứng vụ án:

 - 01 căn cước công dân số 079157002045 tên Tchen Nhì M. Kết luận giám định số 1432/KLGĐ-TT Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Tp. Hồ Chí Minh xác định căn cước công dân trên là giả.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 màu trắng thu giữ của T.

Tại bản cáo trạng số 167/CT-VKS ngày 24 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố các bị cáo Nguyễn Sơn T, Hồ Gia Đ về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức” theo khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình nêu tóm tắt nội dung vụ án, các nguyên nhân điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, nêu các tình tiết giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt tiền bị cáo T từ 50.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng, bị cáo Đ từ 40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

Về vật chứng và trách nhiệm dân sự thì đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

 - Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, không có tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Hồ Gia Đ: thống nhất truy tố bị cáo về tội danh, điều khoản viện dẫn cũng như nội dung cáo trạng truy tố; chỉ nêu ra các tình tiết giảm nhẹ để Hội đồng xét xử xem xét: bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đã thành khẩn khai báo và ăn năn hố cải, phạm tội nhưng chưa có thiệt hại xảy ra, vì bị cáo là người Hoa nên trình độ về tiếng Việt rất thấp nên nhận thức về pháp luật còn hạn chế nhiều, động cơ mục đích của bị cáo cũng chỉ vì muốn vay được tiền nên làm theo mọi chỉ dẫn của bị cáo T chứ bị cáo cũng không ý thức được là sẽ làm giả căn cước công dân, từ đó đề nghị Hội đồng xét xử phạt tiền bị cáo một mức phạt phù hợp cũng đủ tác dụng răn đe bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố các bị cáo Nguyễn Sơn T, Hồ Gia Đ, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Xét thấy lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận khi bị cáo Hồ Gia Đ thông báo mẹ của bị cáo Đ là bà Tchen Nhì M không đồng ý thế chấp căn nhà do cha mẹ bị cáo Đ đứng tên sở hữu để bị cáo vay tiền tại ngân hàng Eximbank, bị cáo Nguyễn Sơn T đã gợi ý cho bị cáo Đ làm giả căn cước công dân của bà M và tìm người đóng giả bà M để hoàn tất hồ sơ thế chấp tài sản; cụ thể, bị cáo T yêu cầu bị cáo Đ gửi 02 ảnh chứng minh nhân dân và 01 tấm hình thẻ 3x4 của bà Lê Thị C, chụp hình căn cước công dân của bà M gửi cho bị cáo T để bị cáo T gửi cho tài khoản Zalo “N Nguyễn” làm giả căn cước công dân của bà M với giá 4.500.000 đồng, sau đó bị cáo Đ mang căn cước công dân giả này đến Phòng công chứng số 4 để làm thủ tục công chứng hồ sơ thế chấp tài sản thì bị phát hiện, hành vi của các bị cáo Nguyễn Sơn T và Hồ Gia Đ đã phạm vào tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự.

Hành vi làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức của các bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, nó không chỉ xâm phạm tới hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức mà còn gây mất an ninh trật tự xã hội tại địa phương. Các bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức được hành vi làm giả các loại giấy tờ của các cơ quan, tổ chức, sau đó dùng vào mục đích phạm pháp bị pháp luật nghiêm cấm và trừng trị nhưng bị cáo T vì mục đích tham lam, hám lợi, bị cáo Đ vì mục đích cá nhân mà các bị cáo cố tình thực hiện tội phạm, thể hiện sự coi thường trật tự kỉ cương pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết áp dụng hình phạt nghiêm nhằm mục đích giáo dục, cải tạo các bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết: các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Hội đồng xét xử xét thấy các tình tiết và đề nghị của luật sư nêu ra là có cơ sở nên chấp nhận.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không bị thiệt hại và không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về vật chứng vụ án:

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 thu giữ của bị cáo T, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo dùng vào việc phạm tội nên tịch thu và nộp ngân sách nhà nước.

- 01 căn cước công dân số 079157002045 tên Tchen Nhì M, qua giám định là giả, Hội đồng xét xử xét thấy đây là chứng cứ của vụ án và có thể lưu giữ trong hồ sơ vụ án nên cần lưu vào hồ sơ vụ án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Căn cứ Điều 106, Điều 135 và 136 Bộ luật tố tụng hình sự:

Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

[1] Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Sơn T, Hồ Gia Đ phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Sơn T: phạt tiền 60.000.000 (sáu mươi triệu) đồng. Xử phạt bị cáo Hồ Gia Đ: phạt tiền 40.000.000 (bốn mươi triệu) đồng.

[2] Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 màu trắng, mặt trước và sau bị bể.

Lưu hồ sơ vụ án 01 căn cước công dân giả, số 079157002045, tên Tchen Nhì M, sinh ngày 07/7/1957.

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 95/PNK ngày 23/6/2020 và 19/PNK ngày 18/01/2021 của Công an quận Tân Bình).

[3] Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

 [4] Trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, các bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

281
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2021/HS-ST ngày 13/01/2021 về tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức

Số hiệu:10/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về