Bản án 10/2021/HS-ST ngày 02/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG NINH, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 10/2021/HS-ST NGÀY 02/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 02 tháng 6 năm 2021, tại Trụ sở Toà án nhân dân(TAND) huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 11/2021/TLST- HS ngày 12 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2021/QĐXXST-HS ngày 19/5/2021 đối với bị cáo: Đặng Xuân N, sinh ngày 11 tháng 10 năm 1987. Tại: Xã X, huyện Q, tỉnh Quảng Bình. Nơi ĐKNKTT và chổ ở hiện nay: Thôn X, xã X, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Không nghề; Con ông Đặng Xuân V và bà Nguyễn Thị D. Tiền sự: Không.

Tiền án: 02 tiền án. Ngày 25/11/2015, bị TAND huyện Quảng Ninh xử phạt 24 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản". Ngày 31/5/2019, bị TAND huyện Quảng Ninh xử phạt 12 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản" Nhân thân: Ngày 11/4/2006, bị Công an huyện bắt, sau đó tạm giam về hành vi "Cưỡng đoạt tài sản". Ngày 09/6/2006, Đặng Xuân N trốn khỏi nơi giam giữ và bị truy nã. Ngày 25/9/2006, bị TAND huyện Quảng Ninh xử phạt 18 tháng tù giam về tội "Cưỡng đoạt tài sản" (xử vắng mặt do Đặng Xuân N bỏ trốn từ ngày 09/6/2006 vẫn chưa bắt được). Ngày 08/8/2007, bị TAND huyện Quảng Ninh xử phạt 24 tháng tù giam về tội "Trộm cắp tài sản" và "Trốn khỏi nơi giam giữ". Tổng hợp với Bản án ngày 25/9/2006 xử phạt 42 tháng tù giam. Ngày 22/9/2011, bị TAND TP Huế xử phạt 21 tháng tù giam về tội "Trộm cắp tài sản". Ngày 29/02/2012, bị TAND huyện Lệ Thủy xử phạt 30 tháng tù giam về tội "Trộm cắp tài sản". Tổng hợp với Bản án ngày 22/9/2011 của TAND thành phố Huế xử phạt 51 tháng tù giam. Ngày 11/8/2015, bị Công an xã An Ninh, Quảng Ninh xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi "Trộm cắp tài sản" (đã nộp phạt). Ngày 26/12/2017, bị Công an phường Đồng Sơn, thành phố Đồng Hới xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi "Sử dụng trái phép chất ma túy".

Bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình từ ngày 05/3/2021 cho đến nay, theo lệnh trích xuất bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: Bà Trương Thị Thúy P, địa chỉ: Thôn X, xã X, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, có mặt.

* Người làm chứng:

- Anh Nguyễn Đức T, địa chỉ: Thôn X, xã X, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt.

- Chị Nguyễn Thị H, địa chỉ: Thôn X, xã X, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 01 giờ 00 phút ngày 05/03/2021, Đặng Xuân N, sinh năm 1987, ở thôn X,xã X huyện Quảng Bình đi bộ từ nhà ra dọc theo đoạn đường liên thôn. Khi đi đến khu vực thôn X, xã X, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, N phát hiện nhà chị Trương Thị Thúy P, sinh năm 1983, ở thôn X, xã X thấy cửa sổ bên hông trái nhà không đóng, nhìn xung quanh nhà không có ai nên N đã trèo qua cửa sổ rồi đột nhập vào bên trong nhà chị P. N thấy cửa phòng ngủ mở nên đi đến trước cửa quan sát, phát hiện có 01 (một) máy tính xách tay nhãn hiệu DELL, số loại INSPIRON 3421 màu đen; 01 (một) điện thoại di dộng OPPO A53 màu đen và 01 (một) điện thoại di động VIVO màu vàng trắng để ở trên bàn gỗ sát mép cửa ra vào của phòng ngủ nên đã lấy trộm. N cất giấu 02 (hai) điện thoại di động vào trong túi áo khoác, cầm máy tính xách tay rồi theo đường cũ để tẩu thoát ra ngoài. Sau khi ra khỏi nhà chị P thì N tháo 02 (hai) sim điện thoại trong 02 (hai) máy điện thoại di động vứt đi ở dọc đường, còn máy tính xách tay N đem đến nhà Nguyễn Đức T, sinh năm 1976, ở X, xã X. 02 (hai) điện thoại di động N mang về nhà cất giấu ở dưới giường trong phòng ngủ của mình rồi đi ngủ. Đến sáng ngày 05/03/2021, N lấy 02 (hai) điện thoại di động đem ra sau vườn cất giấu dưới đống củi gỗ.

Về vật chứng vụ án: Ngày 05/03/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện Quảng Ninh đã tiến hành thu giữ: 01 (một) máy tính xách tay nhãn hiệu DELL, số loại INSPIRON 3421, màu đen (máy tính đã qua sử dụng, không kiểm tra chi tiết bên trong) từ chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1981, ở thôn X, xã X (là vợ của anh Nguyễn Đức T); 01 (một) điện thoại di động OPPO A53 màu đen, số IMEL 1: 864326053895052, số IMEL 2: 864326053895045 (máy đã qua sử dụng không kiểm tra chi tiết bên trong); 01 (một) điện thoại di động VIVO màu vàng trắng, số IMEL 1: 864655039634072, số IMEL 2: 864655039634064, máy đã qua sử dụng, mặt trước bị nứt vỡ ở góc dưới bên phải, mặt sau điện thoại có nhiều vết trầy xước ( không kiểm tra chi tiết bên trong) từ Đặng Xuân N.

Ngày 08/03/2021, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Quảng Ninh định giá 01 (một) máy tính xách tay nhãn hiệu DELL, số loại INSPIRON 3421, màu đen, máy tính đã qua sử dụng giá trị còn lại là 3.500.000 đồng (Ba triệu năm trăm nghìn đồng); 01 (một) điện thoại di động OPPO A53 màu đen, số IMEL 1: 864326053895052, số IMEL 2: 864326053895045, máy đã qua sử dụng giá trị còn lại là 2.600.000 đồng (Hai triệu sáu trăm nghìn đồng); 01 (một) điện thoại di động VIVO màu vàng trắng, số IMEL 1: 864655039634072, số IMEL 2: 864655039634064, máy đã qua sử dụng giá trị còn lại là 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng). Tổng giá trị tài sản thiệt hại là 6.500.000 đồng (Sáu triệu năm trăm nghìn đồng).

Ngày 23/03/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện Quảng Ninh đã ra quyết định xử lý vật chứng: trả 01 (một) máy tính xách tay nhãn hiệu DELL, số loại INSPIRON 3421, màu đen, máy tính đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động OPPO A53 màu đen, số IMEL 1: 864326053895052, số IMEL 2: 864326053895045, máy đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động VIVO màu vàng trắng, số IMEL 1: 864655039634072, số IMEL 2: 864655039634064, máy đã qua sử dụng cho bị hại là chị Trương Thị Thúy P.

Về dân sự: Bị hại Trương Thị Thúy P đã nhận lại toàn bộ tài sản bị mất và không có yêu cầu gì thêm.

Tại bản cáo trạng số: 14/CT-VKS ngày 12/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Ninh đã truy tố bị cáo Đặng Xuân N về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự .

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Ninh vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đặng Xuân N từ 30 tháng đến 36 tháng tù. Vật chứng và dân sự đã xử lý nên không xem xét.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã biết hành vi của mình là sai trái, bị cáo rất ăn năn hối cải nên mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật.

Phiên tòa vắng mặt người làm chứng. Tuy nhiên, sự vắng mặt của họ không gây ảnh hưởng đến việc xác định tội danh và quyết định hình phạt đối với bị cáo, do đó HĐXX tiến hành xét xử vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ quá trình trình thực hiện hành vi phạm tội đúng như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Ninh đã truy tố; phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi liên quan cũng như các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập tại hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Vì vậy, Hội đồng xét xử có cơ sở xác định: Xuất phát từ động cơ hám lợi, ý thức coi thường pháp luật và nhằm mục đích để có tiền tiêu xài cá nhân ngày 05/03/2021, tại thôn X, xã X, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, Đặng Xuân N đã thực hiện hành vi "Trộm cắp tài sản" của chị Trương Thị Thúy P gây thiệt hại là 6.500.000 đồng (Sáu triệu năm trăm nghìn đồng). Năm 2015 Đặng Xuân N bị TAND huyện Quảng Ninh xử phạt 24 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản" chưa được xóa án tích. Ngày 27/8/2018 Đặng Xuân N tiếp tục phạm tội "Trộm cắp tài sản". Ngày 31/05/2019 bị TAND huyện Quảng Ninh xử phạt 12 tháng tù chưa được xóa án tích. Hành vi nêu trên của Đặng Xuân N đã đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự. Do đó cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Ninh truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo Đặng Xuân N là người trưởng thành, đủ trình độ nhận thức, am hiểu về pháp luật và xã hội nhất định, nhưng do thiếu ý thức tu dưỡng rèn luyện về đạo đức lối sống, lười lao động nhưng muốn có tiền một cách nhanh chóng để thoả mãn nhu cầu cá nhân nên thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của công dân. Hành vi phạm tội của bị cáo rất nguy hiểm, thể hiện thái độ xem thường pháp luật, coi thường quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội trên địa bàn. Ngoài ra bị cáo có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 11/4/2006, bị Công an huyện bắt, sau đó tạm giam về hành vi "Cưỡng đoạt tài sản". Ngày 9/6/2006, Đặng Xuân N trốn khỏi nơi giam giữ và bị truy nã. Ngày 25/9/2006, bị TAND huyện Quảng Ninh xử phạt 18 tháng tù giam về tội "Cưỡng đoạt tài sản" (xử vắng mặt do Đặng Xuân N bỏ trốn từ ngày 09/6/2006 vẫn chưa bắt được). Ngày 8/8/2007, bị TAND huyện Quảng Ninh xử phạt 24 tháng tù giam về tội "Trộm cắp tài sản" và "Trốn khỏi nơi giam giữ".

Tổng hợp với Bản án ngày 25/9/2006 xử phạt 42 tháng tù giam. Ngày 22/9/2011, bị TAND TP Huế xử phạt 21 tháng tù giam về tội "Trộm cắp tài sản". Ngày 29/2/2012, bị TAND huyện Lệ Thủy xử phạt 30 tháng tù giam về tội "Trộm cắp tài sản". Tổng hợp với Bản án ngày 22/9/2011 của TAND TP Huế xử phạt 51 tháng tù giam. Ngày 11/8/2015, bị CA xã An Ninh, Quảng Ninh xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi "Trộm cắp tài sản" (đã nộp phạt). Ngày 26/12/2017, bị CA phường Đồng Sơn, TP Đồng Hới xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi "Sử dụng trái phép chất ma túy". Qua đó thể hiện bị cáo có nhân thân không tốt, là người khó giáo dục cải tạo. Vì vậy, cần xử phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và cần thiết cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trên được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.

[5] Vật chứng vụ án: Đã xử lý ở giai đoạn điều tra nên miễn xét.

[6] Trách nhiệm dân sự: Chị Trương Thị Thúy P đã nhận lại được tài sản bị trộm cắp và không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại nên miễn xét.

[7] Trong vụ án này, sau khi trộm cắp tài sản tại nhà chị Trương Thị Thúy P, Đặng Xuân N đã đem chiếc máy tính xách tay trộm cắp được cất giấu tại nhà của anh Nguyễn Đức T, sinh năm 1976 ở thôn X, xã X. Anh T không biết đó là tài sản do Núi trộm cắp mà có nên không truy cứu trách nhiệm hình sự.

[8] Án phí sơ thẩm: Buộc bị cáo Đặng Xuân N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, điểm g khoản 2 Điều 260, khoản 1 Điều 268, khoản 1 Điều 269, khoản 1 Điều 298, khoản 1 và khoản 4 Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo Đặng Xuân N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt Đặng Xuân N 30 (Ba mươi) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 05/3/2021.

2. Án phí sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Đặng Xuân N phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2021/HS-ST ngày 02/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:10/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quảng Ninh - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về