Bản án 10/2021/HNGĐ-ST ngày 05/03/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN HIỆP, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 10/2021/HNGĐ-ST NGÀY 05/03/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 05 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 182/2021/TLST- HNGĐ ngày 09 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2021/ QĐXXST-HNGĐ ngày 19/01/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 09/2021/QĐST- HNGĐ ngày 19/01/2021 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Cao Thị Mỹ C (Bình Y), sinh năm 1986 (có mặt) Địa chỉ: Số nhà 227, tổ 07, ấp Đ, xã B, huyện H, tỉnh Kiên Giang.

* Bị đơn: Anh Phạm Thanh S, sinh năm 1985 (vắng mặt) Địa chỉ: Số nhà 227, tổ 07, ấp Đ, xã B, huyện H, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa chị Cao Thị Mỹ C trình bày: Chị C và anh Phạm Thanh S chung sống với nhau vào ngày 19 tháng 6 năm 2008, có tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán địa phương và đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện H, tỉnh Kiên Giang vào ngày 22/6/2009. Trước khi chung sống vợ chồng có tìm hiểu nhau trước khoảng 3 năm mới tiến tới hôn nhân, hôn nhân tự nguyện, không bị cưỡng ép.

Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến đầu năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh S đi làm ăn có quen người phụ nữ khác, không có trách nhiệm với vợ con, vợ chồng thường cự cãi nhau, chị C có khuyên nhiều lần nhưng anh S vẫn không thay đổi. Từ đó vợ chồng luôn bất đồng quan điểm với nhau trong cuộc sống, có lối sống không phù hợp, mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn lại được. Vợ chồng không sống với nhau từ tháng 01 năm 2020 cho đến nay.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 01 con chung là: Phạm Thị Khánh B, sinh ngày 08/7/2009. Hiện nay cháu đang sống chung với chị C.

Về tài sản chung: Trong thời gian chung sống vợ chồng không tạo lập được tài sản chung gì.

Về nợ chung: vợ chồng không nợ ai và cũng không ai nợ vợ chồng.

Tại phiên tòa chị C yêu cầu:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị C yêu cầu được ly hôn với anh S.

- Về con chung: Chị C yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Hiệp phát biểu ý kiến: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và thư ký đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật. Bị đơn vắng mặt mặc dù Tòa án đã tống đạt, thông báo văn bản tố tụng hợp lệ.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Hiệp đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Cao Thị Mỹ C. Xử cho chị Cao Thị Mỹ C và anh Phạm Thanh S được ly hôn. Về quan hệ con chung: Tiếp tục giao cháu Phạm Thị Khánh B, sinh ngày 08/7/2009 cho chị C trực tiếp, trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng. Anh S không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Phạm Thanh S với tư cách là bị đơn. Tại phiên tòa hôm nay anh S vắng mặt. Xét thấy anh S đã được Tòa án tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa hợp lệ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng anh S vắng mặt không có lý do, nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án là phù hợp theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 BLTTDS.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét mối quan hệ hôn nhân giữa chị C và anh S là hôn nhân hợp pháp, vì anh chị chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện H, tỉnh Kiên Giang, giấy chứng nhận kết hôn số 61, quyển số I/09 ngày 22/6/2009 theo đúng quy định của pháp luật. Phù hợp với Điều 11 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 được sửa đổi bổ sung năm 2010.

[3] Xét yêu cầu xin được ly hôn của chị C cho thấy vợ chồng anh chị chung sống với nhau đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, chị C cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn là do anh S có quen người phụ nữ khác, không có trách nhiệm với vợ con dẫn đến việc vợ chồng thường xuyên cự cãi nhau, chị C có khuyên và cho anh S cơ hội nhiều lần nhưng anh S vẫn không thay đổi, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn lại được.

Sau khi thụ lý vụ án, tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh S không đến Tòa án để tham gia tố tụng, vắng mặt không có lý do nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của anh S và anh S cũng không có bất cứ văn bản nào thể hiện ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của chị C. Tại phiên tòa chị C vẫn giữ nguyên yêu cầu xin được ly hôn. Theo quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định “ Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình; Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau....” . Xét thấy thực tế giữa chị C và anh S không có tiếng nói chung trong cuộc sống, không ai quan tâm đến ai, vợ chồng không sống chung với nhau từ tháng 01 năm 2020 cho đến nay, không ai có ý muốn hàn gắn cuộc sống vợ chồng, xét thấy cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin được ly hôn của chị C.

[4] Về quan hệ con chung: chị C xác nhận chị và anh S có 01 người con chung là: Phạm Thị Khánh B, sinh ngày 08/7/2009 hiện đang sống với chị C.

Tại phiên tòa chị C yêu cầu được nuôi cháu B, không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con. Theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 “vợ chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con, trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”. Xét yêu cầu của chị C xin được nuôi cháu B là có cơ sở chấp nhận và phù hợp với đạo đức xã hội, bởi lẽ theo nguyện vọng của cháu B là xin được sống với chị C và chị C cho rằng kinh tế của chị đủ khả năng nuôi cháu, hơn nữa cháu B là con gái nên cần sự chăm sóc, gần gũi của người mẹ nhiều hơn, ngoài ra từ khi chị C và anh S không sống chung với nhau thì cháu B trực tiếp sống với chị C, mặt khác anh S không có ý kiến gì về việc chị C xin được nuôi cháu B. Hội đồng xét xử thống nhất chấp nhận yêu cầu xin được nuôi cháu B, không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con của chị C. Tiếp tục giao cháu: Phạm Thị Khánh B, sinh ngày 08/7/2009 cho chị C trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng. Anh S không phải cấp dưỡng nuôi con. Không ai có quyền cản trở việc tới lui thăm nom chăm sóc con chung.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát. Từ những nhận định trên Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát là hoàn toàn phù hợp, có cơ sở chấp nhận theo đúng quy định của pháp luật.

[7] Về án phí HNST: Buộc chị C phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Báo cho các đương sự biết có quyền kháng cáo trong hạn luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 28, 147, 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Căn cứ các Điều 51, khoản 1 Điều 56, 57, 81, 82, 83, 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường Vụ Quốc Hội khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử :

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Cao Thị Mỹ C.

Cho ly hôn giữa chị Cao Thị Mỹ C và anh Phạm Thanh S.

2. Về quan hệ con chung: Chấp nhận yêu cầu xin được nuôi con của chị Cao Thị Mỹ C. Tiếp tục giao cháu Phạm Thị Khánh B, sinh ngày 08/7/2009 cho chị Cao Thị Mỹ C trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng. Anh Phạm Thanh S không phải cấp dưỡng nuôi con. Không ai có quyền cản trở việc tới lui thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

3. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Buộc chị Cao Thị Mỹ C phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo lai thu số 0007978 ngày 29/9/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Kiên Giang.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2021/HNGĐ-ST ngày 05/03/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:10/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Hiệp - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về