Bản án 10/2021/HNGĐ-ST ngày 02/03/2021 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HƯNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 10/2021/HNGĐ-ST NGÀY 02/03/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 02 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 188/2020/TLST-HNGĐ ngày 18/11/2020 về tranh chấp về hôn nhân gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2021/QĐXX - ST ngày 19 tháng 01 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 01/2021/QĐ - ST ngày 03/02/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phạm Thị C, sinh năm 1984. Địa chỉ: Thôn LH, xã HGg, huyện ĐH, tỉnh TB.

Bị đơn : Anh Phạm Quang Tr, sinh năm 1983 Địa chỉ: Thôn LH, xã HG, huyện ĐH, tỉnh TB (Các đương sự đều có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn ngày 16/11/2020 và trong quá trình tố tụng chị Phạm Thị C trình bày:

Chị C kết hôn với anh Tr do tự nguyện có đăng kí kết hôn tại UBND xã Đ H, nay là xã HGvào năm 2007. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn một phần do anh Tr ham chơi lô đề nợ nần nhiều, nợ cả xã hội đen khi họ đến đòi nợ ảnh hưởng tới các con và cả bố mẹ đẻ chị, một phần còn do mẹ chồng không hiểu chị. Quá trình chung sống khi anh Tr sai lầm chị C và gia đình đã nhiều lần khuyên bảo, động viên và trả nợ thay cho anh Tr nhưng anh Tr vẫn không thay đổi. Tháng 9/2020 chị C chán nản đã đưa các con về bên ngoại sinh sống, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay. Nay chị C xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị không còn niềm tin ở anh Tr, không muốn những sai lầm của anh Tr sẽ ảnh hưởng đến các con nên chị nhất định xin được ly hôn anh Tr. Dù Tòa án có khuyên vợ chồng về đoàn tụ chị vẫn không chấp nhận và không về chung sống với anh Tr.

Về con chung: Chị C và anh Tr có 02 con chung là Phạm Văn H, sinh ngày 05/12/2007 và Phạm Kiến V, sinh ngày 15/6/2012. Hiện nay hai con đang ở với chị C. Ly hôn chị C xin nuôi cả hai con và cho rằng anh Tr còn nợ nần nên chị không yêu cầu anh Tr cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị mà việc cấp dưỡng cho con do tùy tâm anh Tr. Hiện tại chị làm công nhân thu nhập bình quân 8.000.000 đồng/tháng. Hiện chị về ở cùng bố mẹ đẻ ở thôn LH xã HG. Bố mẹ đẻ chị là cán bộ hưu trí có điều kiện kinh tế , có nhà ở khang trang rộng rãi có thể hỗ trợ chị trong việc nuôi dạy, trong nom con chung.

Về tài sản chung: Chị Cúc không yêu cầu giải quyết về tài sản. Về nợ chung: Vợ chồng không có nợ chung.

Tại phiên tòa anh Phạm Quang Tr trình bày. Việc chị C trình bày về thời gian điều kiện kết hôn của vợ chồng là đúng. Anh thừa nhận nguyên nhân vợ chồng mâu thuẫn do từ năm 2016 anh ham chơi lô đề dẫn đến nợ nần là đúng. Nhưng anh vẫn chăm chỉ làm ăn và quan tâm đến vợ con. Do vợ chồng làm cùng công ty chị C là kế toán nên chị C là người quản lý thẻ lương của anh. Anh thừa nhận mấy năm gần đây mỗi năm chị C phải trả nợ cho anh mỗi năm khoảng 90 triệu đồng. Tuy nhiên từ khi chị C đưa con về bên ngoại anh đã nhận ra sai lầm đã không đánh lô đề nữa và đã trả gần hết các khoản nợ. Anh đã nhận được các văn bản của Tòa án gửi cho anh qua đường bưu điện và qua chính quyền địa phương nhưng cũng có khi do công việc, cũng có khi anh bị bất ngờ chưa có sự chuẩn bị tâm lý khi chị C có đơn ly hôn anh, nên anh không đến Tòa trình bày. Nay anh vẫn còn tình cảm với chị C do vậy anh không muốn ly hôn, anh muốn chị C và Hội đồng xét xử cho anh một cơ hội để sửa chữa sai lầm, nếu chị C cố tình ly hôn anh phải chấp nhận.

Về con chung: Anh và chị C có hai con chung Phạm Văn H, sinh ngày 05/12/2007 và Phạm Kiến V, sinh ngày 15/6/2012. Nếu phải ly hôn anh không đồng ý để chị C nuôi cả hai con, anh muốn được nuôi một con dù là bất cứ con nào. Việc anh xin nuôi con cũng nhằm mục đích để anh có sự ràng buộc để có thể thay đổi bản thân và có điều kiện để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Về điều kiện nuôi con hiện nay anh làm công ty mức thu nhập từ 9 – 15 triệu đồng. Hiện tại anh vẫn ở nhà do vợ chồng xây dựng ở thôn LH, xã ĐH. Trước đây anh làm cùng công ty với chị C, gần đây chuyển công ty khác nhưng anh làm quản lý nên có thể chủ động thời gian làm việc và có thời gian chăm sóc con.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng phát biểu quan điểm việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi nghị án đúng quy định của pháp luật việc chấp hành pháp luật của chị Cúc đã tuân thủ pháp luật, đối với anh Trường chưa tuân thủ quy định của pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân gia đình xử cho chị C được ly hôn anh Tr. Giao con chung Phạm Văn H, sinh ngày 05/12/2007 cho chị C nuôi dạy, giao con Phạm Kiến V, sinh ngày 15/6/2012 cho anh Tr nuôi dạy. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

Về tài sản chung: Do các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết. Về án phí: Buộc chị C, phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về Tố tụng tố tụng:

Chị C có đơn khởi kiện về việc ly hôn anh Tr tại Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng.

[2]. Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị C, anh Tr kết hôn do tự nguyện có đăng kí kết hôn là hôn nhân hợp pháp.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống bình thường đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh Tr chơi bời dẫn đến nợ nần. Chị C và gia đình khuyên bảo nhưng anh Tr vẫn không thay đổi. Chị C đã mất lòng tin ở anh Tr. Nay chị C có đơn xin ly hôn, anh Tr không muốn vợ chồng phải ly hôn nhưng không đưa ra được biện pháp khắc phục để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Tại phiên Tòa anh Tr trình bày nếu chị C cố tình ly hôn anh phải chấp nhận ly hôn. Xét thấy mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài mục đích hôn nhân không đạt được, do vậy cần chấp nhận nguyện vọng của chị C, xử cho chị được ly hôn anh Tr là phù hợp với quy định của pháp luật.

[2.2] Về con chung: Chị C và anh Tr có 02 con chung là Phạm Văn H, sinh ngày 05/12/2007 và Phạm Kiến V, sinh ngày 15/6/2012.

Chị C xin nuôi cả hai con . Anh Tr cũng có nguyện vọng xin nuôi con. Mặc dù cả hai con đều có nguyện vọng ở với chị C. Tuy nhiên hiện tại anh Tr và chị C đều đi làm ở công ty đều có thu nhập ổn định. Tại phiên tòa chị C thừa nhận thu nhập của anh Tr cao hơn thu nhập của chị mức thu nhập từ 09 – 15 triệu đồng/tháng. Anh Tr có nhà ở đang ở ngôi nhà do vợ chồng xây dựng khang trang sạch sẽ tại thôn LH, xã HG. Do vậy để đảm bảo điều kiện mọi mặt cho các con chung cần giao cho anh Tr, chị C mỗi người nuôi dạy một con, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

[2.3] Về tài sản chung: Chị C, anh Tr không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

[3] Về án phí: Chị C phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a, khoản 1 Điều 39, Điều 35, Điều 146, Điều 147, Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án, lệ phí Tòa án; Điều 51, Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân gia đình Tuyên xử:

1. Xử cho chị Phạm Thị C được ly hôn anh Phạm Quang Tr 2. Về con chung: Giao con chung Phạm Văn H, sinh ngày 05/12/2007 cho chị C trực tiếp nuôi dưỡng. Giao con chung và Phạm Kiến V, sinh ngày 15/6/2012 cho anh Tr trực tiếp nuôi dưỡng. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau, được quyền thăm nom chăm sóc giáo dục con chung không ai được cản trở.

Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn được thực hiện theo các Điều 81, 82, 84 và 116 Luật Hôn nhân gia đình.

3. Về tài sản chung: Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Chị Phạm Thị C phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm. Chuyển số tiền 300.000 đồng chị C đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số0006465 ngày 18/11/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hưng thành tiền án phí .

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án ngày 02/3/2021.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 10/2021/HNGĐ-ST ngày 02/03/2021 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:10/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hưng - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về