Bản án 10/2020/HS-ST ngày 07/05/2020 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C Đ, TỈNH L A

BẢN ÁN 10/2020/HS-ST NGÀY 07/05/2020 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 07 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh L A xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 05/2020/TLST-HS ngày 20 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 3 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Hùng C; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1966; Tại: T; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Ấp P, xã Y, huyện G, tỉnh T; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 9/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Văn Hinh (chết) và bà: Nguyễn Thị Thành (chết); Vợ; Phạm Thị Kim Tr; Con: 03 người con, con lớn nhất sinh năm 1986, nhỏ nhất sinh năm 1990; Tiền án, tiền sự: Không.

- Bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cứ trú từ ngày 07/12/2019 cho đến nay (Có mặt tại phiên tòa).

- Người bị hại: Chị Phan Thị Kim L, sinh năm: 1986 (đã chết);

Người đại diện hợp pháp của người bị hại: Anh Đoàn Văn V, sinh năm 1982 ( Anh V là chồng chị L);

Nơi cư trú: Ấp Kế Mỹ, xã Trường Bình, huyện C G, tỉnh L A (Vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Phan Văn C, sinh năm 1944 (Xin xét xử vắng mặt);

2/ Bà Ngô Thị Lo, sinh năm 1947 (Có mặt);

Cùng cư trú: Ấp Lộc Trung, xã Mỹ Lộc, huyện C G, tỉnh L A.

3/ Cháu Đoàn Hữu Nghĩa, sinh năm 2007;

4/ Cháu Đoàn Thị Nhã Linh, sinh năm 2009;

Nơi cư trú: Ấp Lộc Trung, xã Mỹ Lộc, huyện C G, tỉnh L A;

Người đại diện hợp pháp của cháu Nghĩa, cháu Linh: Anh Đoàn Văn V, sinh năm 1982

 Nơi cư trú: Ấp Kế Mỹ, xã Trường Bình, huyện C G, tỉnh L A; (Vắng mặt).

- Người làm chứng:

1/ Anh Trần Minh Đ, sinh năm: 1991 (Vắng mặt);

Đa chỉ: Ấp Long Ninh, xã Long Hựu Đ, huyện C, tỉnh L A.

2/ Chị Phạm Thị Kim Tr, sinh năm 1968 (Có mặt);

Đa chỉ: Ấp P, xã Y, huyện G, tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi của bị cáo: Khoảng 03 giờ 30 phút ngày 25/10/2019, Nguyễn Hùng C có giấy phép lái xe theo quy định (hạng A1), điều khiển xe mô tô Biển kiểm soát ( viết tắt là BKS) 63B9 - 878.59 chở vợ là chị Phạm Thị Kim Tr ngồi phía sau, lưu thông trên Quốc lộ 50, hướng từ cầu Mỹ Lợi về thị trấn C. Khi đến khu vực Ấp 1, xã Phước Đ, huyện C, tỉnh L A, C phát hiện anh Trần Minh Đ đang dẫn xe mô tô BKS 51L6 – 7785 theo hướng cùng chiều phía trước. Lúc này, C định vượt qua bên trái xe anh Đ nhưng C thấy có một xe ô tô tải (không rõ BKS) chạy chiều ngược lại pha đèn chiếu sáng làm C bị chóa mắt nên C lách vào mép lề phải để vượt qua anh Đ thì xảy ra va chạm với chị Phan Thị Kim L đang đi bộ theo hướng cùng chiều, bên trong phía trước đầu xe anh Đ. Hậu quả chị L bị tử vong khi cấp cứu tại Bệnh viện C, Kết quả khám nghiệm xác định: Mặt đường nhựa rộng 10m, có vạch phân làn đường đứt quãng ở giữa phân chia 2 mặt đường V phần đường riêng biệt. Phần đường hướng từ cầu Mỹ Lợi về thị trấn C rộng 05m10, phần đường ngược lại rộng 4m90. Lấy mép lề phải hướng từ cầu Mỹ Lợi về thị trấn C làm mép đường chuẩn. Vùng va chạm giữa xe mô tô 63B9-878.59 và chị Phan Thị Kim L nằm trên phần đường bên phải, cách mép đường chuẩn nhiều nhất là 2m30 do chị L đi bộ phía bên trong xe mô tô BKS 51L6 - 7785 do anh Đ đang dẫn cùng chiều.

Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 249/TT ngày 30/10/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh L A kết luận: Nguyên nhân chết của chị Phan Thị Kim L do chấn thương sọ não nặng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo C thừa nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Bị cáo khai vì muốn lách vào mép lề phải để vượt qua anh Đ thì xảy ra va chạm với chị Phan Thị Kim L đang đi bộ theo hướng cùng chiều, bên trong phía trước đầu xe anh Đ. Hậu quả chị L bị tử vong khi cấp cứu tại Bệnh viện C, C và chị Tr xây sát nhẹ. Lúc vượt qua xe anh Đ đang dẫn bộ, bị cáo không mở tín hiệu xin vượt và còi báo. Bị cáo bị truy cứu về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” là đúng, không oan sai. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, bị cáo tự nguyện khai báo; không có ai đe dọa, cưỡng ép, không ai bức cung nhục hình; Bị cáo không có ý kiến về Kết luận giám định pháp y, Biên bản khám nghiệm hiện trường, Sơ đồ hiện trường, Bản ảnh hiện trường mà Hội đồng xét xử công bố tại phiên tòa. Về trách nhiệm dân sự, bị cáo đã bồi thường số tiền 148.654.000 đồng, gồm: chi phí mai táng, xây mộ, cấp dưỡng nuôi con và tổn thất tinh thần cho gia đình bị hại.

Anh Đoàn Văn V là người đại diện hợp pháp của người bị hại, người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan kV tại Cơ quan cảnh sát điều tra như sau: Chị L là vợ của anh. Sau khi chị L bị tai nạn tử vong thì cha mẹ vợ làm ma chay, gia đình bị cáo đã đưa tiền lo và bồi thường số tiền 148.654.000 đồng, gồm: chi phí mai táng, xây mộ, cấp dưỡng nuôi con của L và tổn thất tinh thần cho bà H và ông C. Nay anh không có yêu cầu bị cáo bồi thường thêm khoản nào khác, kể cả tổn thất về tinh thần.

Người có quyền lợi – nghĩa vụ liên quan bà Ngô Thị Hcó lời trình bày tại Cơ quan cảnh sát điều tra và tại phiên tòa: Chị Phan Thị Kim L là con gái ruột của bà và ông C. L có chồng là Đoàn Văn V và có 02 đứa con là Nghĩa và Linh. Do sống không hành phúc nên L và các con về sống chung với bà nhưng chưa ly hôn với chồng. Sau khi chị L bị tai nạn tử vong, bà trực tiếp làm ma chay, gia đình bị cáo C đã đưa tiền lo và bồi thường số tiền 148.654.000 đồng, gồm: chi phí mai táng, xây mộ, cấp dưỡng nuôi con của L và tổn thất tinh thần cho bà và ông C. Nay bà không có yêu cầu bị cáo bồi thường thêm khoản nào khác, kể cả tổn thất về tinh thần.

Người có quyền lợi – nghĩa vụ liên quan ông Phan Văn C có lời trình bày tại Cơ quan cảnh sát điều tra thống nhất như lời trình bày của bà Hvà không có yêu cầu bị cáo bồi thường thêm khoản nào khác, kể cả tổn thất về tinh thần.

Người làm chứng chị Phạm Thị Kim Tr có lời trình bày tại Cơ quan cảnh sát điều tra và tại phiên tòa phù hợp với diễn biến sự việc như bị cáo kV tại phiên tòa.

Bản Cáo trạng số 06/CT-VKS ngày 20/02/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh L A truy tố bị cáo Nguyễn Hùng C về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Nguyễn Hùng C đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Hành vi của bị cáo đã vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ, gây hậu quả nghiêm trọng nên cần phải xử lý nghiêm. Xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bồi thường toàn bộ thiệt hại cho gia đình người bị hại và gia đình bị hại có đơn xin bãi nại. Ngoài ra, bị cáo chấp hành tốt Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, nhân thân chưa có tiền án tiền sự, kể từ khi xảy ra tai nạn giao thông cho đến nay không vi phạm pháp luật nên cần xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình. Xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, cho bị cáo hưởng án treo vẫn đảm bảo răn đe, giáo dục bị cáo.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hùng C phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Hùng C từ 01-02 năm tù cho bị cáo hưởng án treo, thời gian thử thách từ 02-04 năm.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho gia đình người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Gia đình người bị hại, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu gì thêm nên không xem xét đề cập.

Ý kiến của bị cáo về quyết định truy tố của Viện kiểm sát: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, việc bị cáo bị truy tố về hành vi “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” là không oan, không sai; bị cáo không có ý kiến gì về tội danh và hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị.

Bà Ngô Thị Hxin giảm hình phạt cho bị cáo.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo gửi lời xin lỗi gia đình chị L, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để bị cáo cùng vợ con làm lo trả nợ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét nội dung vụ án: Khoảng 03 giờ 30 phút ngày 25/10/2019, Nguyễn Hùng C có giấy phép lái xe theo quy định, điều khiển xe mô tô BKS 63B9-878.59 chở vợ ngồi phía sau là chị Phạm Thị Kim Tr lưu thông trên Quốc lộ 50, hướng từ cầu Mỹ Lợi về thị trấn C. Khi đến khu vực ấp 1, xã Phước Đ, huyện C, tỉnh L A, C điều khiển xe vượt bên phải anh Trần Minh Đ đang dẫn xe mô tô BKS 51L6 – 7785 theo hướng cùng chiều phía trước là không đúng quy định, vi phạm khoản 2 Điều 14 Luật Giao thông đường bộ và đã gây ra tai nạn với chị Phan Thị Kim L đi bộ phía bên trong. Hậu quả, chị L bị tử vong do chấn thương sọ não nặng.

[3] Biên bản khám nghiệm hiện trường vụ tai nạn giao thông lập hồi 03 giờ 40 phút ngày 25/10/2019, Sơ đồ hiện trường vụ tai nạn giao thông lập hồi 03 giờ 15 phút cùng ngày xác định vùng va chạm giữa xe mô tô 63B9-878.59 và chị Phan Thị Kim L nằm trên phần đường bên phải, cách mép đường chuẩn nhiều nhất là 2m30 do chị L đi bộ phía bên trong xe mô tô BKS 51L6 - 7785 do anh Đ đang dẫn cùng chiều.

Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 249/TT ngày 30/10/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh L A kết luận: Nguyên nhân chết của chị Phan Thị Kim L do chấn thương sọ não nặng. Lời khai của bị cáo, lời khai của người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tại phiên tòa phù hợp với tài liệu chứng cứ thu thập có trong hồ sơ vụ án.

[4] Bị cáo C điều khiển xe máy vượt xe máy của anh Đ nhưng không mở tín hiệu xin vượt, khi thấy có xe ngược chiều, bị cáo lách về phải xe máy anh Đ để vượt lên là nguyên nhân chính dẫn đến va chạm với chị L đang đi bộ cùng chiều, lỗi của bị cáo là lỗi vô ý vì quá tự tin. Hành vi của bị cáo đã vi phạm quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 14 của Luật Giao thông đường bộ:

1. Xe xin vượt phải có báo hiệu bằng đèn hoặc còi; trong đô thị và khu vực dân cư từ 22 giờ đến 05 giờ chỉ được báo hiệu xin vượt bằng đèn.

2. Xe xin vượt chỉ được vượt khi không có chướng ngại vật phía trước, không có xe chạy ngược chiều trong đoạn đường định vượt, xe chạy trước không có tín hiệu vượt xe khác và đã tránh về phía bên phải”.

[5] Tại điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Làm chết người;

[6] Như vậy, hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự. Chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa, tuyên bố bị cáo phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

[7] Xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho gia đình người bị hại và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan; đây là 03 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo các điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự; bị cáo tại ngoại đã chấp hành tốt yêu cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng, không có phản ánh vi phạm pháp luật; gia đình người bị hại có đơn xin bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; có bà ngoại là mẹ Việt Nam anh hùng; bị cáo được tặng nhiều giấy khen trong quá trình công tác, bản thân đang phải trị bệnh đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình Sự. Vì vậy, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

[8] Xét hình phạt: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, gây hậu quả chết người; tình hình tai nạn giao thông tại địa phương đang có xu hướng gia tăng, gây hoang mang lo lắng trong nhân dân. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm để đảm bảo sức răn đe phòng ngừa chung, đảm bảo tính nghiêm minh công bằng của pháp luật; đồng thời giáo dục bị cáo thành người có ích cho gia đình và xã hội. Xét thấy bị cáo có đủ các điều kiện được hưởng án treo theo quy định tại Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP, có khả năng tự cải tạo, việc cho hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự nên chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo nhưng cho hưởng án treo.

[9] Xét trách nhiệm dân sự: Bị cáo và gia đình người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan xác định phần trách nhiệm đã thỏa thuận xong, không yêu cầu bồi thường gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét, không đề cập.

[10] Về vật chứng, tang vật của vụ án: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra có tạm giữ và đã trả lại xe mô tô biển kiểm soát 63B9-878.59 cho chủ sở hữu. Riêng xe mô tô biển kiểm soát 51L6-7785 anh Đ trình bày của chị L mua lại xe cũ nhưng chưa sang tên chủ sỡ hữu và giấy chứng nhận đăng ký xe mất, Cơ quan CSĐT Công an huyện C tách ra tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý sau là phù hợp.

[11] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Hùng C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 98; các khoản 1, 2 Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 65 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ vào Điều 135; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 332; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hùng C phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hùng C 01 (một) năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (07/5/2020).

Giao bị cáo Nguyễn Hùng C cho Ủy ban nhân dân xã Y, huyện G, tỉnh T theo dõi, giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo (bị cáo C) thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo (bị cáo C) cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự.

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Hùng C chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Án xử công khai có mặt bị cáo Nguyễn Hùng C, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan báo cho bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa biết được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người đại diện hợp pháp của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

269
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2020/HS-ST ngày 07/05/2020 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:10/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cần Đước - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về