Bản án 10/2020/HNGĐ-ST ngày 28/04/2020 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N - TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 10/2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/04/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 28/4/2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 283 ngày 5/12/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04 ngày 20/02/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 04 ngày 13/3/2020, Thông báo thay đổi thời gian xét xử số 10 ngày 06/4/2020, Thông báo thay đổi quyết định thay đổi thời gian xét xử số 27 ngày 22/04/2020 về việc “ Ly hôn” giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Kiều Thị H, sinh năm 1998.

Trú tại: Thôn Đ, xã S, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Nghề nghiệp: Làm ruộng.

2. Bị đơn: Anh Bùi Văn C, sinh năm 1989.

Trú tại: Thôn 5, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Nghề nghiệp: Làm ruộng.

Chị Hà vắng mặt có đơn đề nghị xử vắng mặt. Anh C vắng mặt lần 2 không có lí do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Trong đơn khởi kiện cũng như bản tự khai ngày 19/12/2019, biên bản hòa giải ngày 11/2/2020 và đơn xin xử vắng mặt chị Hà trình bày:

1.Quan hệ hôn nhân và gia đình: Chị H và anh C đăng ký kết hôn vào ngày 20 tháng 12 năm 2016 tại UBND xã P, huyện N, tỉnh Ninh Bình trên tinh thần tự nguyện. Sau khi kết hôn vợ chồng anh C, chị H về sống chung với nhau tại nhà mẹ đẻ anh C ở thôn 5, xã P, huyện N, thời gian vợ chồng sống hạnh phúc đến đầu năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không hợp nhau nên thường xuyên va chạm, mặc dù đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Đến tháng 6 năm 2017, vợ chồng lại tiếp tục mâu thuẫn chị H đã bỏ về nhà mẹ đẻ tại thôn Đ, xã S, huyện N, tỉnh Ninh Bình để ở, cũng từ đó vợ chồng không quan tâm đến nhau nữa. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị xin ly hôn anh C.

2. Về con chung: Chị H, anh C không có con chung.

3.Về tài sản chung về công nợ chung: Chị H xác định vợ chồng chị không có nên, nên không yêu cầu giải quyết

Ý kiến anh C: Tại biên bản lấy lời khai ngày 11/02/2020 và tại biên bản hòa giải cùng ngày, anh C trình bày: Về việc kết hôn và diễn biến quan hệ hôn nhân và gia đình, anh nhất trí như ý kiến của chị H. Sau khi cưới xong anh và chị H sống cùng mẹ anh ở thôn 5, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Về nguyên nhân mâu thuẫn anh C xác định do anh nghi ngờ chị H gửi tin nhắn cho người đàn ông khác nên anh uống rượu say rồi đánh chửi chị H dẫn đến việc chị H bỏ về nhà mẹ đẻ chị từ tháng 6/2017 , anh C có đón chị H 1 lần nhưng chị H không về nên anh không đón nữa, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay. Nay chị H xin ly hôn anh không muốn ly hôn,anh đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng đoàn tụ vì anh vẫn còn tình cảm với chị H nếu không thì đề nghị Tòa án căn cứ pháp luật giải quyết.

1.Về con chung: Anh C xác định như chị H trình bày.

2 Về tài sản chung và công nợ chung: Anh C xác định đúng như chị H trình bày, anh không yêu cầu Tòa giải quyết.

Đại diện VKS phát biểu quan điểm về việc tuân theo Pháp luật của Thẩm phán, Thư ký phiên tòa.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, chị Hà đã thực hiện đúng các quy định tại các Điều 70, 71 BLTTDS. Anh C không tham gia đầy đủ phiên họp tiếp cận, công khai, chứng cứ và hòa giải dù được Tòa án thông báo, tống đạt hợp lệ.

Về đường lối đề nghị như sau: Căn cứ các Điều 5, 147, 227, 228, 266, 271, và khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Các Điều 56, 58 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Kiều Thị H.

Xử ly hôn giữa chị Kiều Thị H và anh Bùi Văn C.

2. Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Hà phải nộp theo quy định của Pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

1.Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Đây là tranh chấp về Hôn nhân và gia đình về việc yêu cầu xin ly hôn của chị Kiều Thị H với anh Bùi Văn C. Tranh chấp trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình.

2. Về thủ tục tố tụng: Đối với các đương sự, từ khi thụ lý đơn khởi kiện của chị Hà, Tòa án nhân dân huyện N đã gửi thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng cho các đương sự. Đối với anh C, anh không tham gia đầy đủ phiên họp tiếp cận, công khai, chứng cứ và hòa giải dù được Tòa án thông báo, tống đạt hợp lệ. Đến ngày 20/2/2020 Tòa án nhân dân huyện N đã quyết định đưa vụ án ra xét xử.

3. Về quan hệ hôn nhân: Chị Kiều Thị H và anh Bùi Văn C đăng ký kết hôn tại UBND xã P vào ngày 20 tháng 12 năm 2016 là hôn nhân tự nguyện và hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chị H sống với nhau tại nhà của mẹ anh C ở thôn 5, xã P, vợ chồng, chị H, anh C sống chung được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng không hợp nhau, nên cuộc sống vợ chồng thường xuyên va chạm như chị H trình bày, còn anh C xác định do anh nghi ngờ chị H gửi tin nhắn cho người đàn ông khác nên anh uống rượu say rồi đánh chửi chị H dẫn đến việc chị H bỏ về nhà mẹ đẻ sinh sống. Từ thực tế khi mâu thuẫn xảy ra vợ chồng chị H, anh C cũng không có biện pháp tích cực nào của cả hai bên để vợ chồng về đoàn tụ dù sau khi chị H bỏ về nhà mẹ chị ở, anh C có đến đón chị 1 lần nhưng chị không về. Từ tháng 6/2017, hai người đã sống ly thân không quan tâm đến nhau. Xét thấy tình cảm vợ chồng chị H, anh C chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa, đời sống tình cảm và khả năng đoàn tụ của hai người thực sự không còn, đã có đủ cơ sở pháp lý để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H. Xử ly hôn giữa chị H và anh C là phù hợp với thực tế và quy định của Pháp luật để hai người sớm ổn định cuộc sống (áp dụng điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014).

4. Về con chung: Từ lời khai của chị H và anh C và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì vợ chồng chị H không có con chung nên không đặt ra việc giải quyết về con chung.

5. Về tài sản chung, về công nợ chung: Từ yêu cầu của chị H và các tài liệu có trong hồ sơ và kết quả xác minh thì chị H và anh C không có tài sản chung và công nợ chung nên không đặt ra việc giải quyết.

6. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị H phải nộp theo quy định của Pháp luật. Số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí chị Hà đã nộp được chuyển sang án phí.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Các Điều 56, 58 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Các Điều 5, 147, 227, 228, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu miễn giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Kiều Thị H. Xử ly hôn giữa chị Kiều Thị H và anh Bùi Văn C.

2. Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị H phải nộp 300.000 đồng, chị H đã nộp 300.000 đồng tạm ứng án phí tại biên lai thu số: 0000383 ngày 5/12/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện N nay chuyển sang án phí.

3. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm chị H, anh C được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

284
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2020/HNGĐ-ST ngày 28/04/2020 về ly hôn

Số hiệu:10/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về