Bản án 10/2020/HNGĐ-ST ngày 20/03/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KẾ SÁCH, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 10/2020/HNGĐ-ST NGÀY 20/03/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG

Ngày 20/3/2020 tại phòng xử án thuộc trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kế Sách xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 480/2019/TLST-HNGĐ ngày 05/12/2019 về việc “Tranh chấp Ly hôn và nuôi con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 17/02/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 17/2020/QĐST-HNGĐ, ngày 05/3/2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngô Thị Ngọc A, sinh năm 1984 (vắng mặt).

2. Bị đơn: Ông Trương Hoàng T, sinh năm 1978 (vắng mặt).

Cùng địa chỉ: Số X, ấp K, xã Đ, huyện K, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Căn cứ vào đơn khởi kiện của nguyên đơn, qua xem xét lời khai và yêu cầu của các đương sự, qua xét hỏi trước tòa, nội dung vụ án được xác định như sau:

Theo đơn khởi kiện ngày 05/12/2019, trong quá trình giải quyết vụ án bà Ngô Thị Ngọc A trình bày: Bà A và ông T kết hôn trên tinh thần tự nguyện, giấy chứng nhận kết hôn do UBND xã Đại Hải cấp ngày 08/9/2008. Quá trình chung sống, ông bà có 02 con chung tên Trương Thị Ngọc H, sinh ngày 28/02/2001 và Trương Tấn Đ, sinh ngày 05/7/2008. Vợ chồng phát sinh mâu thuẫn từ năm 2015, đã không còn cùng quan điểm sống, không còn quan tâm, chăm sóc nhau. Ông T tính tình độc đoán và luôn nghi ngờ tình cảm của bà. Mặc dù vợ chồng được hai bên gia đình động viên hàn gắn nhưng không có kết quả. Nhận thấy không thể hàn gắn tình cảm vợ chồng, nay bà A yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông T; Về con chung, bà A cho rằng con chung tên Trương Thị Ngọc H đã trưởng thành, phát triển bình thường về thể chất lẫn tinh thần nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Riêng cháu Trương Tấn Đ hiện đang sống chung với chị gái H trong căn nhà chung của bà và ông T tại số X, ấp K, xã Đ, huyện K, tỉnh Sóc Trăng. Ông T cũng có nguyện vọng nuôi con nên bà A đồng ý giao cháu Đ cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu Đ đủ 18 tuổi, đồng ý không cấp dưỡng nuôi con theo yêu cầu của ông T; Về tài sản chung và nợ chung, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại Biên bản lấy lời khai ngày 11/02/2020, bị đơn ông Trương Hoàng T trình bày: Do bà A thường xuyên nhắn tin với bạn bè trên mạng xã hội, ông đã nhắc nhở nhiều lần nhưng bà A không khắc phục nên vợ chồng xảy ra mâu thuẫn. Ngoài ra, vợ chồng không có mâu thuẫn gì lớn. Ông T cho rằng ông còn thương vợ nên muốn hàn gắn với bà A. Nếu bà A kiên quyết ly hôn, ông T có yêu cầu nuôi cháu Đ đến tuổi trưởng thành, không yêu cầu bà A cấp dưỡng nuôi con. Ông T làm nghề bán cá đồng, thu nhập khoảng 500.000 đồng/ngày nên đủ điều kiện nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung, ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại Biên bản lấy lời khai đương sự ngày 24/12/2019, cháu Trương Tấn Đ có nguyện vọng sống với mẹ là bà Ngô Thị Ngọc A. Tuy nhiên, tại Biên ản lấy lời khai ngày 04/3/2020, bà A cho rằng sau khi được bà động viên, cháu Đ đã đồng ý sống với cha là ông Trương Hoàng T để tiện việc học hành của cháu.

Nguyên đơn không rút đơn khởi kiện. Tại phiên tòa, nguyên đơn và bị đơn vắng mặt nên các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Thẩm phán tiến hành các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 như thẩm quyền thụ lý vụ án, xác định tư cách đương sự, quan hệ tranh chấp, thu thập chứng cứ. Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định pháp luật. Đối với bị đơn: Không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định pháp luật.

Về nội dung giải quyết vụ án:

Về hôn nhân, bà A và ông T kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm, thường xuyên cải nhau. Xét thấy quan hệ hôn nhân phải xây dựng trên cơ sở tự nguyện của hai bên, vợ chồng phải thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Mặc dù ông T không đồng ý ly hôn vì còn thương vợ con nhưng bà A đã kiên quyết ly hôn, cho thấy mâu thuẫn hôn nhân đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài. Về con chung, cháu Đ đang ở với cha và đi học gần nhà, ông T có yêu cầu nuôi con và cũng đủ điều kiện để nuôi cháu Đ. Bà A hiện đã đi làm tại Bình Dương và cũng đồng ý giao cháu Đ cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng nên cần chấp nhận yêu cầu này của đương sự. Bà A không phải cấp dưỡng nuôi con do ông T không có yêu cầu. Về tài sản chung và nợ chung, các đương sự không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét.

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bà A được ly hôn với ông T, giao cháu Đ cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng đến khi trưởng thành. Về án phí: Bà A chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Xét thấy tại phiên tòa nguyên đơn bà Ngô Thị Ngọc A vắng mặt nhưng có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt; bị đơn ông Trương Hoàng T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 227, 228, 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Ngô Thị Ngọc A và ông Trương Hoàng T chung sống với nhau trên tinh thần tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật nên được pháp luật công nhận hôn nhân của ông bà là hợp pháp. Trong quá trình chung sống, bà A và ông T phát sinh nhiều mâu thuẫn trong thời gian dài (theo bà A là từ năm 2015 đến nay). Mặc dù ông T có nguyện vọng hàn gắn nhưng ông chưa thể hiện thiện chí trong quá trình tố tụng, cụ thể ông không đến tham gia các phiên hòa giải, phiên tòa để có điều kiện trình bày nguyện vọng của mình trước bà A. Hội đồng xét xử thấy rằng, quan hệ hôn nhân phải được xây dựng trên cơ sở tự nguyện của hai bên, nay bà A đã kiên quyết ly hôn cho thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không thể Đ được. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà A.

[2.2] Về con chung: Bà A và ông T có 02 con chung tên Trương Thị Ngọc H, sinh ngày 28/02/2001 và Trương Tấn Đ, sinh ngày 05/7/2008. Chị Hân đã trưởng thành, phát triển bình thường về thể chất lẫn tinh thần nên các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết. Riêng cháu Đ hiện đang sống với ông T và chị gái Hân trong căn nhà chung của bà A và ông T, đi học gần nhà. Ông T có đủ điều kiện để nuôi con. Bà A và ông T cũng đã thống nhất quan điểm giao cháu Đ cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu Đ đủ 18 tuổi, ông T không yêu cầu bà A cấp dưỡng nuôi con. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận sự yêu cầu này của các đương sự.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[3] Xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát: Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách như đã phân tích trên.

[4] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm không có giá ngạch là 300.000 đồng, theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a, khoản 1 Điều 35; Điều 147; Điều 227, 228; Điều 238; Điều 271, 273, Điều 278, Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Điều 26 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014);

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án,

TUYÊN XỬ:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Ngô Thị Ngọc A.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Ngô Thị Ngọc A được ly hôn với ông Trương Hoàng T.

2. Về con chung:

Giao cháu Trương Tấn Đ, sinh ngày 05/7/2008 cho ông Trương Hoàng T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu Đ đủ 18 tuổi. Ghi nhận sự tự nguyện của ông T về việc không yêu cầu bà A cấp dưỡng nuôi con. Bà A được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung, không ai có quyền ngăn cản.

Chị Trương Thị Ngọc H đã trưởng thành, phát triển bình thường về thể chất lẫn tinh thần nên các đương sự không yêu cầu giải quyết.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm không có giá ngạch là 300.000 đồng, bà Ngô Thị Ngọc A phải chịu là 300.000 đồng, được khấu trừ vào Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001044 ngày 05/12/2019 do Chi cục thi hành án dân sự huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng đã thu.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, đối với người vắng mặt được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật, để Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xử phúc thẩm.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a ,7b và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2020/HNGĐ-ST ngày 20/03/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung

Số hiệu:10/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kế Sách - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về