Bản án 10/2020/HNGĐ-ST ngày 06/05/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DẦU TIẾNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 10/2020/HNGĐ-ST NGÀY 06/05/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 06 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 300/2019/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 12 năm 2019 về tranh chấp “Ly hôn và nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2020/QĐST-HN ngày 30 tháng 03 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 13/2020/QĐST-HN ngày 16 tháng 4 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Bùi Thị Thúy H, sinh năm 1988.

Địa chỉ: Ấp Q, xã E, huyện R, tỉnh Bình Dương. Tạm trú: Ấp T, xã Y, huyện R, tỉnh Bình Dương.

- Bị đơn: Anh Đỗ Thanh P, sinh năm 1987.

Đa chỉ: Ấp Q, xã E, huyện R, tỉnh Bình Dương. Chị H có mặt; anh P vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Nguyên đơn chị Bùi Thị Thúy H trình bày: Chị và anh P chung sống với nhau từ năm 2007, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện R, có tổ chức lễ cưới, ngày cưới cho một số nữ trang nhưng hiện tại không còn do vợ chồng bán chi phí trong gia đình. Trong thời gian chung sống có 02 con chung tên Đỗ Hoàng T, sinh ngày 26/11/2007 và Đỗ Hoàng M, sinh ngày 10/12/2011, hiện 02 con đang sống với chị, không có tài sản chung cũng không nợ ai. Anh chị sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân anh P không lo cho gia đình, thường xuyên ăn nhậu dẫn đến cải vã nhau, chị có khuyên anh P lo làm ăn, không ăn nhậu và quan tâm đến gia đình nhưng anh P không thay đổi cho nên chị bỏ về nhà cha mẹ ruột tại ấp T, xã Y, huyện R sống cho đến nay. Trong thời gian ly thân anh P có qua năng nỉ chị quay về nhưng chị thấy anh P không có thiện chí hàn gắn gia đình. Do đó chị yêu cầu được ly hôn với anh P.

Về con chung: Chị yêu cầu được quyền nuôi 02 con, yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi 02 con 2.000.000 đồng/tháng, cho đến khi 02 con đủ 18 tuổi. Tại phiên tòa chị không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn anh Đỗ Thanh P: Anh P đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt không có lý do và cũng không có văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của chị H.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H; giao 02 con cho chị H trông nom chăm sóc nuôi dưỡng, ghi nhận tại phiên Tòa chị H không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con; tài sản chung và nợ chung, chị H không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn anh Đỗ Thanh P đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt là phù hợp với khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Chị Bùi Thị Thúy H và anh Đỗ Thanh P chung sống với nhau vào năm 2007, có đăng ký kết hôn nên được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Chị H yêu cầu ly hôn, do anh P không lo lắng cho gia đình vợ con, thường xuyên ăn nhậu, hơn nữa còn kiếm chuyện cải vã với chị, anh chị sống ly thân từ tháng 04/2018 cho đến nay. Xét thấy, anh P đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh vẫn vắng mặt và không cung cấp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình, chứng tỏ anh P không thể hiện thiện chí đoàn tụ và trong thời gian ly thân anh không tìm cách hàn gắn gia đình, mạnh ai nấy sống, không ai quan tâm chăm sóc đến ai. Từ những nhận định trên, có đủ căn cứ cho rằng mâu thuẫn giữa chị H và anh P lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị H yêu cầu được tiếp tục nuôi con tên Đỗ Hoàng T, sinh ngày 26/11/2007 và Đỗ Hoàng M, sinh ngày 10/12/2011, riêng anh P không ý kiến. Xét thấy, từ ngày anh chị sống ly thân cháu T và cháu M sống chung với chị H đã ổn định được chị trông nom chăm sóc phát triển tốt. Do đó Hội đồng xét xử cần giao cháu T và cháu M cho chị H được tiếp tục nuôi là phù hợp theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Tại phiên tòa chị H thay đổi yêu cầu khởi kiện, không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị H khai không có nên không xem xét giải quyết. Trường hợp sau này anh P có tranh chấp sẽ giải quyết bằng vụ án khác.

[5] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về án phí: Chị H phải chịu án phí theo quy định tại khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, Điều 81 và Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30-12- 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, 1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Bùi Thị Thúy H đối với anh Đỗ Thanh P. Chị H được ly hôn với anh P.

2. Về con chung: Giao cho chị H được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con tên Đỗ Hoàng T, sinh ngày 26/11/2007 và Đỗ Hoàng M, sinh ngày 10/12/2011. Anh P không cấp dưỡng nuôi con.

Anh P có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Chị H không yêu cầu giải quyết.

4. Về án phí: Chị H phải chịu 300.000 đồng tiền án phí sơ thẩm hôn nhân gia đình. Khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số AA/2016/0032185 ngày 29/11/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện R.

Chị H đã nộp đủ tiền án phí. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm chị H có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương. Riêng anh P vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2020/HNGĐ-ST ngày 06/05/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:10/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Dầu Tiếng - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về