Bản án 10/2019/HSST ngày 29/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 10/2019/HSST NGÀY 29/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Uông Bí công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 181/2019/HSST ngày 27-12-2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 07/QĐXX ngày 14-01-2019 đối với bị cáo:

Lê Xuân N; Tên gọi khác: Lê Xuân L; sinh ngày: 05/9/1981. Nơi ĐKHKTT: Thôn H, xã C, huyện H, tỉnh Thái Bình Chỗ ở hiện tại: Thôn S, xã C, huyện H, tỉnh Thái Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Xuân D và bà Bùi Thị Nh; vợ ; Đinh Vũ H. Có 1 con sinh năm 2018.

Tiền án tiền sự; Không Nhân thân:

+ Ngày 22/8/1998, bị Tòa án nhân dân quận T, thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”. Phần dân sự của bản án đã được đình chỉ thi hành án ngày 26/7/2010.

+ Ngày 31/3/1999, bị Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Thái Bình xử phạt 03 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Tổng hợp hình phạt với bản án năm 1998, buộc Lê Xuân N phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 15 tháng tù. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 04/01/2000, phần dân sự của bản án đã được đình chỉ thi hành án ngày 26/7/2010.

+ Ngày 05/4/2004, bị Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Thái Bình xử phạt 15 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/4/2005, phần dân sự của bản án đã được đình chỉ thi hành án ngày 26/7/2010.

+ Ngày 10/4/2009, bị Công an huyện H, tỉnh Thái Bình xử phạt hành chính về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”, đã nộp phạt.

+ Ngày 14/12/2010, bị Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Thái Binh xử phạt 05 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/02/2015, phần dân sự của bản án thi hành xong ngày 13/10/2011.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 26/10/2018, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an thành phố Uông Bí, có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

+ Chị Đinh Vũ H, Sinh năm 1995.

HKTT: Thôn S, xã C, Huyện H, tỉnh Thái Bình. Có mặt tại phiên tòa

* Người làm chứng:

+ Anh Vũ Khắc Đ, Sinh năm 1964.

Nơi cư trú: Tổ 12, khu 2, phường V, thành phố B, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa.

+ Chị Bàng Thị Th, sinh năm: 1996.

Chỗ ở hiện tại: Thôn K, xã L, Tỉnh Tuyên Quang. Vắng mặt tại phiên tòa.

* Người chứng kiến:

+ Anh Hoàng Văn Th – Sinh năm 1983

Nơi cư trú: Tổ 13B, khu 4, phường T, thành phố B, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 03 giờ 30 phút ngày 26-10-2018, tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Uông Bí phối hợp cùng công an phường Đ, thành phố B trong quá trình làm nhiệm vụ tại tổ 3, khu T, phường Đ, thành phố B, tỉnh Quảng Ninh đã phát hiện, bắt quả tang Lê Xuân N có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy, thu tại lòng bàn tay phải N đang cầm trên tay 01 túi nilon màu trắng, bên ngoài kích thước khoảng (3x3)cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng. Ngoài ra, còn thu giữ của Nội 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu trắng vàng gắn sim số 0169.320.8484, 01 thẻ căn cước công dân mang tên Lê Xuân N, số tiền 930.000 đồng. N khai nhận đây là ma túy “đá” của N mua về để sử dụng.

Đối với vật chứng được Công an thu giữ đã được niêm phong đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật.

Tại bản Kết luận giám định số 679/GĐMT ngày 29-10-2018 của Phòng kĩ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Chất tinh thể màu trắng trong 01 túi nilon kích thước (3x3)cm là ma túy Methamphetamine, tổng khối lượng là 0,802 ( không phẩy tám lẻ hai ) gam Quá trình điều tra, bị cáo Lê Xuân N khai nhận: Khoảng 22 giờ ngày 25-10- 2018, Nội đón xe taxi cùng với V (N không biết họ tên địa chỉ của V) đi từ huyện H, tỉnh Thái Bình đến thành phố B, tỉnh Quảng Ninh để thuê nhân viên nữ về phục vụ quán karaoke. Khi ngồi trên xe, V có gọi điện cho 01 người bạn và được hướng dẫn đi đến ngã ba đường 10 ở thành phố B vào 01 nhà nghỉ gần đó. Sau đó, N, V đi đến nhà nghỉ Hoàng Điệp ở gần khu vực ngã ba đường 10 thuê phòng 201, 202 để nghỉ thì V nói có việc sẽ lên sau. Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 26-10-2018, V gọi điện thông báo không đến nhà nghỉ, bảo N lên cầu thang nhà nghỉ Hoàng Điệp có người chờ. Khi N đến tầng 3 thì gặp Bàng Thị Th ở cửa phòng nghỉ 308, N vào phòng và đặt vấn đề với Th về tỉnh Thái Bình phục vụ quán karaoke, Th đồng ý và bảo Nội chờ đến sáng để bạn Th đi cùng. N tiếp tục ngồi nói chuyện thì Th rủ N sử dụng ma túy “đá”, Th đọc cho N số điện thoại để hỏi mua ma túy. N gọi điện theo số điện thoại được Th cho thì gặp có 01 người đàn ông nghe máy và hỏi mua ma túy, người này đồng ý và hẹn ở khu vực Trạm nâng hạ gần cầu B, phường N, thành phố B để giao dịch. Th tiếp tục đọc số điện thoại của hãng xe taxi cho N để gọi xe taxi đi đến điểm hẹn. Khoảng 05 phút sau, N và Th đi xe taxi đến khu vực cầu B, Th yêu cầu lái xe taxi dừng ở khu vực gần Trạm nâng hạ cầu B, N gọi điện thoại cho người đàn ông bán ma túy, người này hẹn sẽ có 01 người mặc áo đỏ, đội mũ trắng đến đưa ma túy cho N. N đi vào ngõ ở phía đối diện Trạm nâng hạ thì có người đàn ông như trên đến, N đưa người này 300.000 đồng để mua ma túy, người này đưa cho N 01 túi nilon màu trắng kích thước khoảng (3x3)cm, bên trong có chất tinh thể màu trắng. Nội xác định đúng là ma túy “đá” rồi cầm ở tay phải và tiếp tục bảo lái xe taxi về nhà nghỉ Hoàng Điệp để sử dụng ma túy. Khoảng 03 giờ 30 phút cùng ngày, khi N và Th đến quầy lễ tân nhà nghỉ Hoàng Điệp thì bị lực lượng công an phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng như đã nêu trên. Số ma túy trên là của N, mục đích để sử dụng cho bản thân.

Bản Cáo trạng số 11/KSĐT-HS ngày 26-12-2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Quảng Ninh đã truy tố bị cáo Lê Xuân N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo như cáo trạng và đề nghị hội đồng xét xử:

- Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự: Đề nghị xử phạt bị cáo Lê Xuân N từ 24 ( Hai mươi bốn ) tháng tù đến 27 ( Hai mươi bẩy ) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày bắt 26-10-2018.

- Áp dụng: khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2, 3 điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị:

+ Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 679/GĐMT ngày 29-10-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, bên trong chứa 0,74 gam ma túy Methamphetamine.

+ Trả lại cho chị Đinh Vũ H (vợ bị cáo Lê Xuân N) 01 chiếc điện thoại Samsung màu trắng vàng cùng sim số 0169.320.8484;

+ Trả lại bị cáo Nội 01 thẻ căn cước công dân mang tên Lê Xuân N, cùng số tiền 930.000đ (Chín trăm ba mươi ngàn đồng ) nhưng tạm giữ số tiền để đảm bảo thi hành án.

Ti phiên tòa bị cáo nhận tội, không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo thừa nhận: Việc truy tố và đưa bị cáo ra xét xử là đúng người đúng tội, không oan tội, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định, tài liệu, chứng cứ, của Cơ quan điều tra Công an thành phố B, của Điều tra viên, của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tài liệu chứng cứ của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng và các tài liệu, chứng cứ được thu thập sử dụng tại phiên tòa của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc định tội đối với bị cáo Lê Xuân N:

Lời khai của bị cáo Lê Xuân N tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ của bị cáo, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, hội đồng xét xử đủ căn cứ kết luận:

Khoảng 03 giờ 30 phút ngày 26-10-2018, tại quầy lễ tân nhà nghỉ Hoàng Điệp thuộc tổ 3, khu T, phường Đ, thành phố B, tỉnh Quảng Ninh, Lê Xuân N có hành vi tàng trữ trái phép 0,802 gam (Không phẩy tám lẻ hai gam) ma túy Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị lực lượng công an phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự phạm tội do lỗi cố ý. Hành vi của vị cáo xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy. Với các chứng cứ, hành vi, của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Vì vây cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố bị cáo và lời luận tội của kiểm sát viên tại phiên tòa đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2] Về hình phạt:

[2.1] Về hình phạt chính Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

Xét về nhân thân: Năm 1998, 1999, 2004, 2010 bị cáo đã bị xét xử về nhiều tội, đến nay đã xóa án tích, tuy không coi đó là tiền án nhưng điều đó thể hiện bị cáo là người có nhân thân xấu. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bị cáo do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Để tăng cường biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm nói chung cũng như để giáo dục, cải tạo riêng đối với bị cáo cần có một hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để bị cáo sửa chữa lỗi lầm của bản thân.

[3.1] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự, người phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ (Năm triệu đồng) đến 500.000.000đ (Năm trăm triệu đồng). Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Lê Xuân N là người không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về đối tượng bán ma túy cho bị cáo .

Đi với người đàn ông nhận bán ma túy và người thanh niên giao ma túy cho Lê Xuân N, do N không xác định được lai lịch, địa chỉ nên quá trình điều tra không làm rõ được để xử lý.

Đi với Bàng Thị Th, Cơ quan điều tra đã tiến hành đối chất giữa bị cáo N và Thủy nhưng không có cơ sở để xử lý với Th.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 chiếc điện thoại Samsung màu trắng vàng cùng sim số 0169.320.8484 của chị Đinh Vũ H, chị H không biết việc bị cáo N mượn điện thoại trên của chị để hỏi mua ma túy nên cần trả lại cho chị H.

- Đối với 01 thẻ căn cước công dân mang tên Lê Xuân N, số tiền 930.000đ ( Chín trăm ba mươi ngàn đồng ) cơ quan Công an đã thu giữ của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội trả lại cho bị cáo (Tạm giữ tiền để đảm bảo thi hành án).

- Số ma túy hoàn lại sau giám định là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Từ nhận định trên :

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Lê Xuân N đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy’’. Xử phạt: Lê Xuân N (tên gọi khác Lê Xuân L) 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 26-10-2018.

2. Áp dụng: Điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

+ Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 679/GĐMT ngày 29-10-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh.

+ Trả lại chị Đinh Vũ H 01 chiếc điện thoại Samsung màu trắng vàng cùng sim số 01693208484,

+ Trả lại bị cáo Lê Xuân N: 01 thẻ căn cước công dân mang tên Lê Xuân N, cùng số tiền 930.000 đồng (Chín trăm ba mươi ngàn đồng) nhưng tạm giữ số tiền để đảm bảo thi hành án.

(Toàn bộ vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26-12-2018 giữa Công an TP. Uông Bí và Chi cục thi hành án dân sự TP. Uông Bí).

3. Áp dụng: Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Lê Xuân N phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2019/HSST ngày 29/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:10/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về