TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 10/2019/HS-ST NGÀY 23/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 23 tháng 01 năm 2019, tại Phòng xử A trụ sở Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 102/2018/TLST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2019/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 01 năm 2019, đối với bị cáo:
Hà Huỳnh T, sinh ngày 24/12/2000; nơi sinh: Thành phố Hồ Chí Minh; địa chỉ: xx đường Minh Phụng, Phường NN, Quận MM, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không có; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Hoa; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Ngọc D và bà Huỳnh Thị Cẩm N; tiền án: Không có; tiền sự: Không có.
Trong vụ án này, bị cáo được tại ngoại. Ngày 24/09/2018 bị Công an Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh bắt tạm giam vì hành vi cướp giật tài sản; (bị cáo có mặt).
Người giám hộ cho bị cáo: Bà Huỳnh Thị Cẩm N, sinh năm 1976; địa chỉ: XX đường Minh Phụng, Phường 5, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh, là mẹ ruột của bị cáo (có mặt).
Người bào chữa cho bị cáo Hà Huỳnh T: Ông Nguyễn Thanh Giang - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
- Bị hại: Bà H, sinh năm 1996; địa chỉ: Số xx đường Lạc Long Quân, Phường 3, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Em Lý Hồ Vĩnh P, sinh ngày 16/6/2002; địa chỉ thường trú: Số 255/14 đường Hậu Giang, Phường 5, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Số xx Bến Ph Định, Phường 16, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh;
Người đại diện hợp pháp của em Lý Hồ Vĩnh P: Bà Hồ Kim T, sinh năm 1984, địa chỉ: xx đường Hậu Giang, Phường 5, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh, là mẹ ruột (xin vắng mặt).
Em Phạm Minh T., sinh ngày 03/8/2003; địa chỉ: Số 251/14A đường Hậu Giang, Phường 5, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh;
Người đại diện hợp pháp của em Phạm Minh T: Bà Phạm Thị Ánh Loan, sinh năm 1980, địa chỉ: Số 251/14A đường Hậu Giang, Phường 5, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh, là mẹ ruột (xin vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 22 giờ 30 ngày 04/6/2018, chị H, điều khiển xe Wave, biển số 68N1-225.50 đi về phòng trọ tại số 106E/55 Lạc Long Quân, Phường 3, Quận 11, chị H dựng xe, khóa cổng rồi ra vào phòng ngủ. Đến khoảng 06 giờ 40 ngày 05/6/2018, chị H định lấy xe đi làm thì phát hiện xe môtô bị mất nên đến Công an Phường 3 Quận 11 trình báo. Qua truy xét, Cơ quan điều tra Công an Quận 11 xác định người lấy trộm xe của chị H là Hà Huỳnh T, Lý Hồ Vĩnh P và Phạm Minh T.
Tại Cơ quan điều tra, Hà Huỳnh T, Lý Hồ Vĩnh P và Phạm Minh T đều khai nhận: Vào khoảng 21 giờ 30 ngày 04/6/2018, T cùng với T đang chơi ở công viên, Phường 5, Quận 6 thì Ph đi bộ đến rủ T đi trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài. Ph nói nhà trọ Ph đang ở có để nhiều xe môtô và biết mật khẩu mở ổ khóa nên T đồng ý. T. đang ở gần nghe được nên đòi đi chung. Cả ba đi bộ đến trước nhà số 106E/55 Lạc Long Quân, Phường 3, Quận 11. Tại đây, Ph mở khóa cửa đi vào bên trong nhà, còn T và T. ở ngoài cảnh giới. Sau đó, Ph dẫn xe Wave biển số 68N1-225.50 từ trong nhà ra. Do không có chìa khóa nên Ph đẩy một đoạn, rồi lần lượt đưa cho T., T tiếp tục đẩy xe đến tiệm sửa xe tại Số 8 Ph Thọ, Phường 2, Quận 11 của chị Lâm Thúy Vân. T nói với thợ sửa xe là anh Huỳnh Minh Thành là đã làm mất chìa khóa xe nên nhờ anh Thành đấu dây điện để nổ máy xe. Sau khi xe nổ máy, cả ba điều khiển xe về lại công viên Phường 5 Quận 6 để T. xuống đi bộ về nhà, còn Ph và T chạy xe lấy được đến nhà Dương Văn Hoàng nhờ Hoàng chỉ chỗ bán xe. Hoàng dẫn Ph và T đến nhà của Nguyễn Hoàng Long nhờ Long bán xe dùm. Long điện thoại cho người thanh niên (chưa xác định được lai lịch) đến xem xe và thỏa T mua xe với giá 5.000.000 đồng. Hoàng lấy 1.000.000 đồng tiền dẫn đi bán xe. Tên Ph được 2.000.000 đồng, Ph cho Long 200.000 đồng, cho thêm Hoàng 200.000 đồng, còn 1.600.000 đồng tiêu xài cá nhân hết. T được 2.000.000 đồng, T cho Long 200.000 đồng, cho cha tên Hà Ngọc Dũng 800.000 đồng, còn lại 1.000.000 đồng T tiêu xài cá nhân hết. T. không mang xe đi bán nên không được chia tiền.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 69/KLĐGTS ngày 09/7/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 11 kết luận: Xe môtô hai bánh hiệu Honda Wave, biển số 68N1-225.50 đã qua sử dụng, tại thời điểm ngày 05/6/2018 là 17.000.000 đồng.
Vật chứng: Đối với chiếc xe Wave, biển số 68N1-225.50 hiện Cơ quan CSĐT vẫn chưa thu hồi được.
Về dân sự: Chị H yêu cầu bồi thường trị giá chiếc xe môtô biển số 68N1-225.50 với số tiền 20.000.000 đồng.
Cơ quan điều tra Công an Quận 11 đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Hà Huỳnh T về hành vi trộm cắp tài sản.
Bản Cáo trạng số 100/CT-VKS ngày 14 tháng 11 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 đã truy tố bị cáo Hà Huỳnh T tội danh “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, bị cáo T thừa nhận hành vi phạm tội, có lời khai phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra và những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Bà Huỳnh Thị Cẩm Ngoan, là mẹ của bị cáo trình bày: Chấp nhận bồi thường cho chị H ½ giá trị chiếc xe bị mất là 8.500.000 đồng.
Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 trình bày lời luận tội, đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 06 tháng đến 09 tháng tù.
Xử lý vật chứng: Không có.
Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Thống nhất về điều khoản, tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như: Bị cáo phạm tội khi chưa thành niên, thực hiện hành vi phạm tội do nhất thời, nông nổi; bị cáo không giữ vai trò chính trong vụ án. Sau khi phạm tội bị cáo đã ăn năn hối cải. Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, khả năng nhận thức pháp luật hạn chế. Mẹ của bị cáo chấp nhận bồi thường ½ giá trị xe mà bị cáo trộm cắp của chi H. Với những phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử quyết định hình phạt nhẹ nhất để tạo điều kiện cho bị cáo có cơ hội sửa đổi.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên; người bào chữa; bị cáo,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
1. Lời khai nhận của bị cáo Hà Huỳnh T phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra, những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở để xác định:
Vào khoảng 23 giờ ngày 04/6/2018, tại nhà cho thuê số 106E/55 Lạc Long Quân, Phường 3, Quận 11, Lý Hồ Vĩnh Ph, Phạm Minh T. và Hà Huỳnh T đã lén lút chiếm đoạt xe môtô biển số 68N1-225.50 của chị H, trị giá 17.000.000 đồng.
Tại thời điểm phạm tội, Ph và T. đều dưới 16 tuổi nên chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính dưới hình thức cảnh cáo đối với Lý Hồ Vĩnh Ph và Phạm Minh T. là đúng quy định pháp luật.
Đối với Dương Văn Hoàng và Nguyễn Hoàng Long đã đi khỏi địa phương nên chưa làm việc được. Cơ quan điều tra Công an Quận 11 đã ra thông báo truy tìm đối với Hoàng và Long, khi nào tìm được làm rõ sẽ xử lý sau.
Đối với anh Hà Ngọc Dũng không biết số tiền 800.000 đồng mà Hà Huỳnh T cho là do bán xe trộm cắp mà có. Anh Dũng đã tiêu xài hết số tiền này nên Cơ quan điều tra không xử lý anh Dũng về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là đúng quy định pháp luật.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 69/KLĐGTS ngày 09/7/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 11 kết luận: Xe môtô hai bánh hiệu Honda Wave, biển số 68N1-225.50 đã qua sử dụng, tại thời điểm ngày 05/6/2018 là 17.000.000 đồng.
Hành vi của Hà Huỳnh T là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm trực tiếp đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an của xã hội. Do đó, Hội đồng xét xử nhận thấy có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Hà Huỳnh T phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xét thấy, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Về tình tiết tăng nặng: Không có.
Ngoài ra, khi phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi nên được áp dụng những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Trong vụ án này, bị cáo không bị tạm giam một ngày nào. Tuy nhiên, hiện nay bị cáo đang bị tạm giam tại Công an Quận 6 do có liên quan đến một vụ án khác.
Về trách nhiệm dân sự:
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án, ông Nguyễn Văn Bào là cha của chị H và chủ sở hữu của chiếc xe Honda Wave biển số 68N1-225.50. Ông Bào xác định đã cho chị H chiếc xe này và chị H có quyền quyết định tất cả các vấn đề liên quan đến việc bồi thường do bị mất xe trong vụ án này. Theo lời khai có trong hồ sơ vụ án, chị H yêu cầu bồi thường trị giá chiếc xe với số tiền 20.000.000 đồng. Theo Bản kết luận định giá tài sản số 69/KLĐGTS ngày 09/7/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 11 kết luận: Xe môtô hai bánh hiệu Honda Wave, biển số 68N1-225.50 đã qua sử dụng, tại thời điểm ngày 05/6/2018 là 17.000.000 đồng. Do đó, xét thấy việc chị H yêu cầu bồi thường giá trị xe bị mất 20.000.000 đồng là không có cơ sở nên Hội đồng xét xử không chấp nhận. Theo ý kiến của bà Huỳnh Thị Cẩm Ngoan, là mẹ của bị cáo T tại phiên tòa hôm nay, bà Ngoan đồng ý bồi thường cho chị H ½ giá trị xe theo giá của Hội đồng định giá là 8.500.000 đồng. Theo đơn trình bày ý kiến của bà Hồ Kim Thắm, là mẹ của em Lý Hồ Vĩnh Ph thì bà Thắm đồng ý bồi thường cho chị H ½ giá trị xe theo giá của Hội đồng định giá là 8.500.000 đồng. Xét thấy, việc bà Ngoan và bà Thắm cùng liên đới bồi thường cho chị H tổng giá trị xe bị mất là 17.000.000 đồng là phù hợp, đúng quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Về xử lý vật chứng: Không có.
2. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 11, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11, Kiểm sát viên, Luật sư trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 50; Điều 91; Điều 101; khoản 1 Điều 173; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Tuyên bố bị cáo Hà Huỳnh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt bị cáo Hà Huỳnh T 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày Cơ quan Thi hành án hình sự có thẩm quyền thi hành việc chấp hành án đối với bị cáo.
Căn cứ vào Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015,
Buộc bà Huỳnh Thị Cẩm N và bà Hồ Thị T, mỗi người phải bồi thường cho bà H số tiền 8.500.000 đồng (tám triệu năm trăm nghìn đồng). Việc bồi thường phải được thực hiện ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bà N và bà T chậm thực hiện việc bồi thường thì bà N và bà T phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo khoản 2 Điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015.
Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo phải chịu 200.000 đồng.
Án phí dân sự:
- Bà Huỳnh Thị Cẩm N chịu án phí 425.000 đồng (bốn trăm hai mươi lăm nghìn đồng).
- Hồ Thị T chịu án phí là 425.000 đồng (bốn trăm hai mươi lăm nghìn đồng).
Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa cho bị cáo có mặt tạị phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 10/2019/HS-ST ngày 23/01/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 10/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 11 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/01/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về