Bản án 10/2019/HS-ST ngày 18/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B - BẮC GIANG

BẢN ÁN 10/2019/HS-ST NGÀY 18/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 18 tháng 01 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 217/2018/HSST ngày 21 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2019/QĐXXST- HS ngày 03 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hoàng Văn T, sinh năm 1970. Tại: Bắc Giang; Tên gọi khác: Không. Địa chỉ: Thôn B, xã T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Hoàng Văn T, đã chết và bà Nguyễn Thị B, đã chết; Có vợ: Ngô Thị H, sinh năm 1971 (đã ly hôn) và hai con, con lớn sinh năm 1995, nhỏ sinh năm 1998; Gia đình bị cáo có 4 anh em, bị cáo là con thứ 3; Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 05/1990/HSST ngày 21/4/1990, Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Bắc Giang xử phạt 9 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”; Tại bản án hình sự sơ thẩm số 61/HSST/1991 ngày 01/10/1991, Tòa án nhân dân thị xã B (nay là thành phố B) xử phạt 12 tháng tù về tội “Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” và 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”, tổng hợp hình phạt với bản án số 05/1990/HSST ngày 21/4/1990 của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Bắc Giang, buộc chấp hành hình phạt chung là 39 tháng tù; Tại bản án hình sự sơ thẩm số 181/HSST/1998 ngày 20/4/1998, Tòa án nhân dân thị xã B (nay là thành phố B) xử phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”; Tại bản án hình sự sơ thẩm số 06/2005/HSST ngày 09/3/2005, Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Bắc Giang xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Tại quyết định số 331/QĐ- UBND ngày 27/3/2008, Chủ tịch UBND huyện Y, tỉnh Bắc Giang quyết định về việc đưa đối tượng nghiện ma túy vào Trung tâm giáo dục lao động xã hội tỉnh Bắc Giang, thời hạn 24 tháng; Tại bản án hình sự sơ thẩm số 105/2011/HSST ngày 09/6/2011, Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Tại quyết định số 48/QĐ- CAP ngày 03/6/2014, Công an phường M, thành phố B xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, phạt tiền 750.000 đồng.

Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/10/2018 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang. (Có mặt).

+ Bị hại: Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1980 Địa chỉ: Xóm C, xã Đ, thành phố B, tỉnh Bắc Giang. (Vắng mặt).

+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Ông Nguyễn Đức T, sinh năm 1953 Địa chỉ: Số 57, ngõ 40, đường M, phường M, thành phố B, tỉnh Bắc Giang.

(Có mặt).

+ Người làm chứng:

1. Anh Trần Hùng D, sinh năm 1982 Địa chỉ: Thôn Q, xã T, huyện K, tỉnh Hà Nam. (Vắng mặt). Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1974 Địa chỉ: Thôn L, xã M, thành phố B, tỉnh Bắc Giang. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hoàng Văn T, sinh năm 1970, trú tại thôn B, xã T, thành phố B là đối tượng nghiện ma túy. Khoảng 18 giờ ngày 21/10/2018, T một mình đi bộ từ phòng trọ ở thôn M, xã T, thành phố B hướng về trung tâm thành phố B với mục đích xem có ai sơ hở gì thì trộm cắp tài sản. Khi đi đến khu vực cổng Công ty TNHH một thành viên Khởi Phát thuộc địa bàn thôn L, xã T, thành phố B, T nhìn thấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu Wave, sơn màu đỏ, biển kiểm soát 29X2-2019 của anh Nguyễn Văn L sinh năm 1980, trú tại Xóm C, xã Đ, thành phố B đang dựng ở vỉa hè (anh L là công nhân của Công ty TNHH một thành viên Khởi Phát). T đi qua đi lại và ngồi ghế đá trước cổng công ty để quan sát. Lúc này có anh Trần Hùng D, sinh năm 1982, trú tại thôn Q, xã T, huyện K, tỉnh Hà Nam là công nhân công ty có nhìn thấy T nhưng sau đó anh D đi làm việc không để ý nữa. T chờ một lúc thấy chiếc xe không có người trong coi, quan sát xung quanh không có ai để ý, T đi đến gần dùng tay phải cậy phần yếm dưới cổ phốt để lộ dây dẫn điện của xe. dùng tay giựt mạnh làm đứt 04 dây đấu với ổ khóa điện. Sau đó T đứng dậy cầm tay lái thì thấy xe bị khóa cổ, T dùng hai tay bẻ mạnh tay lái nhưng không được. T ngồi hẳn lên xe lắc mạnh tay lái hai đến ba lần thì bật chốt khóa cổ. Sau đó, T dùng chân phải đạp cần khởi động rồi nổ máy điều khiển xe đi về địa phận xã T, huyện V, tỉnh Bắc Giang để tìm chỗ tiêu thụ. T khai khi điều khiển xe đi về đến địa phận xã T, huyện V, do lên cơn nghiện ma túy nên T bị ngã xe hai đến 3 lần (T không nhớ rõ), làm chiếc xe bị hư hỏng phần nhựa, rơi mất biển kiểm soát. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày 21/10/2018, do không tìm thấy nơi tiêu thụ nên T điều khiển xe về phòng trọ ngủ. Khoảng 07 giờ ngày 22/10/2018, T điều khiển chiếc xe trên đến nhà ông Nguyễn Đức T sinh năm 1953, trú tại số 57, ngõ 40, đường M, phường M, thành phố B, tỉnh Bắc Giang. Tại đây T hỏi vay tiền và đặt chiếc xe trên ở lại làm tin. Khi ông T hỏi thì T nói dối đó là xe của mình. Ông T đồng ý cho T vay 400.000 đồng. Số tiền trên T khai đã chi tiêu cá nhân hết.

Ngày 21/10/2018, anh Nguyễn Văn L có đơn trình báo Công an thành phố B (Bút lục 74). Cơ quan điều tra đã trích xuất dữ liệu từ camera giám sát của Công ty TNHH một thành viên Khởi Phát trong đó có đoạn hình ảnh chiếc xe của anh L bị trộm cắp.

Ngày 22/10/2018, Hoàng Văn T đến Công an thành phố B đầu thú. Cùng ngày 22/10/2018, ông Nguyễn Đức T giao nộp cho Cơ quan điều tra 01 xe chiếc xe mô tô nhãn hiện Honda Wave, số máy 5209442, số khung 109339. Đối với biển kiểm soát, khung vỏ nhựa, yếm đèn chiếu hậu của chiếc xe, Cơ quan điều tra đã truy tìm nhưng không thu hồi được.

Ngày 22/10/2018, Cơ quan điều tra cho anh Trần Hùng D nhận dạng. Kết quả anh D nhận ra T là người đã xuất hiện ở cổng Công ty TNHH một thành viên Khởi Phát vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 21/10/2018.

Ngày 24/10/2018, Cơ quan điều tra tiến hành xác định hiện trường vụ án. Ngày 26/10/2018, Cơ quan điều tra thực nghiệm điều tra vụ án, kết quả Hoàng Văn T đã thực hiện lại hành vi trộm cắp tài sản như đã khai tại Cơ quan điều tra.

Tại bản Kết luận định giá số 125 ngày 25/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận: chiếc xe máy nhãn hiện Honda Wave, biển kiểm soát 29X2-2019, mầu sơn đỏ đen, số máy 5209442, số khung 109339, xe cũ đã qua sử dụng có giá trị là 5.200.000 đồng.

Ngày 22/11/2018, Cơ quan điều tra trả lại anh L chiếc xe mô tô nhãn hiện Honda Wave, số máy 5209442, số khung 109339, đến nay anh L không yêu cầu bồi thường dân sự.

Đối với ông T có hành vi nhận đặt xe cho T vay tiền nhưng không biết đó là tài sản do T trộm cắp mà có nên ông T không vi phạm pháp luật. Đến nay ông T không yêu cầu T bồi thường dân sự.

Tại Cơ quan điều tra, Hoàng Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội.

Tại bản Cáo trạng số 10/KSĐT ngày 20 tháng 12 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Hoàng Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

- Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

 - Bị hại là anh Nguyễn Văn L vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai tại cơ quan điều tra như sau: Ngày 21/10/2018 Hoàng Văn T có lấy của anh 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Wave, sơn màu đỏ, biển kiểm soát 29X2-2019. Nay anh đã được cơ quan điều trả lại chiếc xe trên, mặc dù chiếc xe bị mất biển kiểm soát và phần nhựa bảo vệ bên ngoài nhưng anh không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì về dân sự.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là ông Nguyễn Đức T có mặt tại phiên tòa trình bày: Sáng ngày 22/10/2018 bị cáo T có đến nhà ông hỏi vay tiền và đặt chiếc xe mô tô nhãn hiệu Wave, sơn màu đỏ, biển kiểm soát 29X2-2019 ở lại làm tin. Khi ông hỏi thì bị cáo T nói đó là xe của mình nên ông đồng ý cho bị cáo T vay 400.000 đồng. Nay ông đã giao nộp chiếc xe trên cho cơ quan điều tra, đối với số tiền 400.000đ ông cho bị cáo T vay ông không yêu cầu bị cáo T hoàn trả hay bồi thường gì.

- Hội đồng xét xử công bố lời khai của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và những người làm chứng vắng mặt, bị cáo có mặt không có ý kiến gì.

- Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt: Bị cáo Hoàng Văn T từ 12 tháng đến 14 tháng tù, thời gian tù tính từ ngày 22/10/2018.

3. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 106

. Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc áo vải dài tay, loại áo giàn di, màu xanh-nâu-đỏ và 01 chiếc quần bò ngố màu xanh đều đã cũ qua sử dụng là của bị cáo.

5. Về trách nhiệm dân sự: Không xem xét giải quyết.

6. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B,

Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về tội danh: Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, lời khai người làm chứng, Biên bản tiếp nhận người phạm tội đầu thú đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 21/10/2018, tại khu vực cổng Công ty TNHH một thành viên Khởi Phát ở đường 295B thuộc địa bàn thôn L, xã T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang, Hoàng Văn T đã có hành vi trộm cắp 01 chiếc xe mô tô nhãn hiện Honda Wave, biển kiểm soát 29X2-2019 có giá trị 5.200.000 đồng của anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1980, trú tại Xóm C, xã Đ, thành phố B. Bị cáo đã phạm vào tội "Trộm cắp tài sản" được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản trên là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo thực hiện hành vi một cách liều lĩnh, lén lút vào Công ty nơi bị hại làm việc và bẻ khóa điện của xe máy để chiếm đoạt tài sản của bị hại, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân. Do đó, phải xử lý bị cáo bằng pháp luật hình sự nhằm mục đích giáo dục riêng và phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này.

[4]. Xét về nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị xét xử hình sự về hành vi trộm cắp tài sản, hành vi sử dụng trái phép vũ khí quân dụng, bị xử phạt hành chính về hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy, bị ra Quyết định xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục phạm tội.

[5]. Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Tại giai đoạn điều tra và trước phiên toà hôm nay bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình đã gây ra, bị cáo đã đến cơ quan Công an đầu thú về hành vi phạm tội của mình. Đây là những tình tiết để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6]. Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[7]. Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, hoàn cảnh gia khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8]. Về trách nhiệm dân sự: Cơ quan điều tra đã thu hồi và trả lại bị hại là anh Nguyễn Văn L tài sản bị trộm cắp. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì về dân sự nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[9]. Đối với ông Nguyễn Đức T khi cho bị cáo vay tiền và nhận chiếc xe máy bị cáo trộm cắp được để làm tin nhưng ông T không biết đó là xe là do phạm tội mà có nên ông T không vi phạm pháp luật.

[10]. Về xử lý vật chứng: Đối với 01 chiếc áo vải dài tay, loại áo giàn di, màu xanh-nâu-đỏ và 01 chiếc quần bò ngố màu xanh đều đã cũ qua sử dụng là của bị cáo, bị cáo không yêu cầu xin lại nên cần tịch thu tiêu hủy.

[11]. Tiếp tục tạm giam bị cáo Hoàng Văn T 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án theo quy định tại Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.

[12]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Văn T phạm tội "Trộm cắp tài sản".

2. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt: Bị cáo Hoàng Văn T 10 (Mười) tháng tù thời gian tù tính từ ngày 22/10/2018.

3. Vật chứng của vụ án:

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 (một) chiếc áo vải dài tay, loại áo giàn di, màu xanh-nâu-đỏ đã cũ qua sử dụng và 01 (một) chiếc quần bò ngố màu xanh đã cũ qua sử dụng.

(Vật chứng của vụ án được chuyển giao cho Chi cục thi hành án dân sự thành phố B theo Quyết định chuyển vật chứng số 07/QĐ- VKS ngày 20/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B).

4. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận tống đạt hoặc niêm yết bản án.

6. Hướng dẫn thi hành án dân sự: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2019/HS-ST ngày 18/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:10/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về